Trong một mô hình máy tính, nhóm
khoa học đã tính ra những điều kiện ban đầu của vụ nổ, trong đó có
các yếu tố: trọng lượng, dòng khí và thành phần hóa học của những
đám mây.
Theo tính toán, hiện tượng cô đặc
vật chất (do lực hấp dẫn) xuất hiện đầu tiên trong trung tâm của đám
mây, tạo ra một mặt trời nhỏ. Rồi mặt trời này cứ lớn lên dần bằng
cách hút vật chất từ đám mây. Dựa vào mô hình này, nhóm khoa học đã
phác ra ngôi sao đầu tiên với khối lượng khổng lồ - gấp 100 lần mặt
trời.
(Trước nay, thuyết tương đối giải
thích vũ trụ trên phạm vi vĩ mô, thuyết lượng tử đề cập tới các hiện
tượng vi mô. Hai thuyết này không đồng nhất. Nghĩa là khi hiện tượng
xảy ra tại một điểm, chỉ có một lý thuyết đúng. Ranh giới toán học
giữa hai thuyết này đến nay vẫn chưa xác định được).
Đồng thời, những tiên đoán dựa
trên LQG về hiện tượng tốc độ ánh sáng phụ thuộc vào màu sắc cũng đã
được kiểm chứng bằng thực nghiệm. Rovelli đã xác định được sự khác
biệt vô cùng nhỏ về tốc độ giữa ánh sáng có màu khác nhau. Điều này
trái với quan điểm cho rằng tốc độ ánh sáng là cố định (c = 299.792
km/s).
Lý thuyết hấp dẫn lượng tử dải cho
rằng vật chất trong không-thời gian (hệ toạ độ bốn chiều, trong đó
thời gian là chiều thứ 4) tương tự như các đám bọt. Những bọt này có
thể thổi lên thành bóng, tạo ra sự uốn cong trong vũ trụ. Điều đó
phù hợp với những giải thích về không gian cong trong thuyết tương
đối rộng của Einstein.
LQG cũng có tham vọng như thuyết
String: Tìm ra một "công thức vũ trụ", có thể xác định được tất cả
các hiện tượng ở mọi điểm trên tọa độ không-thời gian. Tuy nhiên,
khác với thuyết String (cho rằng vũ trụ hình thành từ các chuỗi -
string, và có vô số chiều), LQG có thể giải thích vũ trụ mà không
cần thông qua chiều không gian phụ.
Minh Hy (theo
dpa)
7- Chứng minh chiều không
gian thứ tư bằng thực nghiệm?
6/11/2002
Một ý tưởng nghệ thuật về chiều không gian thứ tư.
|
|
Các lý thuyết vật lý hiện đại, như
thuyết String, cho rằng vũ trụ có nhiều hơn 3 chiều không gian. Để
chứng minh điều này, các nhà khoa học Mỹ sẽ chế tạo một máy đo siêu
nhỏ (nano machine), nhằm chỉ ra các hiệu ứng khác lạ, dẫn tới kết
luận về sự hiện hữu của các chiều không gian khác.
Nhóm nghiên cứu của Ephraim Fischbach và Dennis Krause, Đại học
Purdue (Mỹ), giới thiệu nguyên lý của thí nghiệm này như sau: Theo
thuyết String, ở các khoảng không gian cực hẹp (cấp độ nanomét),
không gian sẽ bị "cuộn" lại trong các chiều khác (có thể là chiều
thứ 4, thứ 5 hoặc nhiều hơn). Điều này sẽ làm thay đổi lực hấp dẫn
giữa các vật thể trong không gian đó. |
Vì thế, nếu người ta xây dựng được một thí nghiệm
để chỉ ra sự thay đổi này của lực hấp dẫn, thì người ta có thể kết
luận rằng, có chiều không gian thứ 4.
Các nhà khoa học dự định sẽ đo lực hấp dẫn giữa
hai lá thép siêu mỏng, đặt cách nhau một khoảng cỡ nanomét (1
nanomét = 1 phần triệu milimét). Để đo được chính xác lực hấp dẫn
này, người ta cần loại trừ một đại lượng gọi là hiệu ứng Casimir.
Theo cơ học lượng tử, hiệu ứng này được sinh ra
bởi các photon ảo, thường bất ngờ xuất hiện trong chân không rồi lại
tự động biến mất. Bình thường, trong không gian xuất hiện các photon
với những bước sóng rất đa dạng. Tuy nhiên, ở giữa hai tấm kim loại
hẹp thì điều đó không thể. Ở đây, chỉ có các photon với bước sóng
nhất định. Hệ quả là, giữa hai tấm này sẽ có ít photon hơn bên
ngoài. Sự chênh lệch về các photon trong và ngoài hai lá kim loại sẽ
tạo ra một lực nhỏ, ép chúng lại với nhau. Lực đó gọi là hiệu ứng
Casimir.
Để loại trừ hiệu ứng trên, các nhà khoa học sẽ
phải làm thí nghiệm với các lá thép giống hệt nhau, nhưng có đồng vị
khác nhau. Ở giữa chúng, hiệu ứng Casimir sẽ giống nhau, nhưng lực
hấp dẫn lại khác nhau (lá thép có đồng vị lớn hơn sẽ nặng hơn, và
tạo ra lực hấp dẫn mạnh hơn). Bằng cách so sánh hai lực hấp dẫn này,
người ta có thể loại bỏ hiệu ứng Casimir ra khỏi phép đo.
Các nhà khoa học hy vọng sẽ thực hiện được thí
nghiệm này trong thời gian tới. Nếu thí nghiệm thành công, thì đây
sẽ là một sự kiện chấn động, vì nó sẽ khẳng định sự tồn tại của
chiều không gian thứ 4, điều mà theo
Stephen Hawking là không thể tưởng tượng được với não bộ của con
người bình thường.
Minh Hy (theo
SPIEGEL)
8- Liệu có lỗ đen dạng
chuỗi?
27/5/2002
Hố đen tạo ra xung quanh nó một không gian cong cực lớn, hút sạch
mọi tín hiệu (Hình mô phỏng) |
|
Trong vũ trụ bao la có thể còn tồn
tại một thể kỳ dị nữa, tương tự như lỗ đen, nhưng không phải dạng
cầu, mà là dạng chuỗi(Black String). Phỏng đoán này là hệ quả của
một mô hình toán học về lỗ đen trong không gian nhiều hơn 3 chiều.
Tiến sĩ Gary Horowitz và TS Kengo
Maeda, Đại học California ở Santa Barbara (Mỹ), đã nghiên cứu các
dạng kỳ dị của vũ trụ dựa trên thuyết string. Theo đó, chuỗi đen
là vật thể một chiều, được bao bọc bởi một chân trời sự cố (event
horizon - hay còn gọi là chân trời vũ trụ - tức là ranh giới mà các
tín hiệu điện từ không thể quay lại được nữa). Nó cũng giống như một
lỗ đen, nhưng lại bị kéo dài ra thành một ống. Các “ống” này có thể
cuộn thành vòng hoặc giãn dài ra đến vô cùng.
|
Đến nay các nhà vật lý cho rằng,
mỗi một biến động nhỏ đều khiến Black String thay đổi hình dạng, vì
thế nó rất không bền vững, và có thể nhanh chóng chuyển thành các lỗ
đen dạng cầu quen thuộc. Tuy nhiên, nếu thế thì chân trời sự cố của
chuỗi đen phải tập trung vào trung tâm, và bẻ cong toàn bộ chuỗi
đen.
Nay, ở mô hình toán học xây dựng
trên không gian nhiều hơn 3 chiều, Gary Horowitz và Kengo Maeda đã
chỉ ra rằng, xác suất để một chuỗi đen dạng ống chuyển thành lỗ đen
là bằng 0, vì sự giãn nở của chân trời sự cố diễn ra tuyệt đối đều
đặn trên suốt chiều dài của chuỗi đen.
Điều gì sẽ xảy ra nếu một nhà du
hành chạm vào chuỗi đen? "Cũng tương tự như khi chạm vào lỗ đen, anh
ta sẽ không hề nhận ra sự tồn tại của nó" - nhà vật lý Luis Lehener
giải thích - "Anh ta chỉ cảm nhận thấy một gia tốc khủng khiếp,
trước khi bị biến mất hoàn toàn vào phía sau của chân trời sự cố".
Minh Hy (theo
dpa)
9- Big
Bang không phải là khởi thủy của vũ trụ
18/4/2002
Hình mô phỏng Big Bang. |
|
Mô hình này này được các nhà vật
lý xây dựng trên nền tảng của thuyết string. Theo đó, Big Bang không
phải là khởi điểm của không-thời gian, mà chỉ là một cảnh chuyển
tiếp trong màn kịch luân hồi vô tận của vũ trụ.
Ý tưởng này có nhiều điểm giống
như trong thuyết luân hồi của Ấn Độ giáo và Phật giáo, cũng như
thuyết về "sự lặp lại vĩnh viễn của các hiện tượng" của Nietzsche. |
Tuy nhiên, Giáo sư Paul Steinhardt, tác giả của lý thuyết mới nói
rằng, ông không hề quan tâm đến tôn giáo hoặc Nietzsche. "Tôi là một
người thực dụng với trái tim lạnh giá. Tôi chỉ quan tâm tới khía
cạnh triết lý trên nền tảng của các kết quả thí nghiệm".
Giáo sư
Steinhardt cùng cộng sự là
Neil Turok (cựu đồng nghiệp của
Stephen Hawking ở ĐH Cambridge) đã xây dựng mô hình vũ trụ luân
hồi trên thuyết string (cho rằng vũ trụ được cấu thành từ các chuỗi
- string, và có vô số chiều). Theo đó, bên cạnh vũ trụ của chúng ta
còn tồn tại một vũ trụ khác, như hai bàn tay khép lại với nhau.
Chúng được ngăn cách bởi một chiều không gian thứ 5 (trong vũ trụ
của chúng ta, không - thời gian làm thành một hệ tọa độ 4
chiều). Giữa ai vũ trụ tồn tại một trường lực, khiến chúng hút và
đẩy nhau theo chu kỳ, như sự vỗ tay đềuh đặn của hai bàn tay. Cứ mỗi
lần hai bàn tay chạm vào nhau là chiều không gian thứ 5 biến mất, và
một lần nữa lại xuất hiện Big Bang. Và thế giới lại hình thành từ
đầu. Cứ như vậy, không có điểm bắt đầu và kết thúc.
Gabriele Veneziano, một trong
những người tiên phong xây dựng thuyết string, thuộc Trung tâm
nghiên cứu hạt nhân CERN, rất tâm đắc với học thuyết mới. Ông nói:
"Đây có lẽ là thời điểm mà chúng ta nên chấp nhận Big Bang có thể là
kết quả của một cái gì đó, chứ không chỉ là nguyên nhân của tất cả".
Minh Hy (theo
dpa)
10- Vũ trụ
sinh - diệt theo chu kỳ vài nghìn tỷ năm
20/2/2002
Các vụ nổ siêu tân tinh ngày các ít đi, vũ trụ ngày càng rộng ra và
lạnh hơn
|
|
Các nhà khoa học Mỹ vừa đưa ra một lý thuyết mới về
chu kỳ sinh - diệt của vũ trụ. Theo đó, cứ vài nghìn tỷ năm, vũ trụ
của chúng ta lại va chạm với một vũ trụ khác. Vụ nổ này khiến nó bị
hủy diệt hoàn toàn và tái sinh lại từ đầu.
Đây là hệ quả mới nhất của thuyết Brane - một
thuyết về nguồn gốc vũ trụ, được xây dựng từ nền tảng của thuyết
String. Vì những vấn đề toán học, thuyết String không thể áp dụng
cho hệ tọa độ 3 chiều, mà chỉ đúng với hệ tọa độ ít
nhất là 10 chiều, hoặc 11 chiều như ý kiến mới đây của nhà
vật lý người Anh
Stephen Hawking.
|
Năm 1995, lần đầu tiên nhà vật lý
Mỹ Ed Witten đưa ra một lý thuyết cho rằng vũ trụ của chúng nằm
trong một mặt (Brane) của hai mặt cong úp vào nhau như hai bàn tay.
Hai mặt này lại nằm trong một hệ tọa độ 11 chiều (1 thời gian + 10
không gian như 10 ngón tay). Tại Brane chứa vũ trụ của chúng ta, ngự
trị các quy luật vật lý quen thuộc. Tuy nhiên, ở Brane kia, 6 trong
số 10 chiều không gian bị quấn cong trong một bán kính nhỏ, mà với
điều kiện kỹ thuật hiện nay, chúng ta chưa có khả năng khám phá.
Cách đây vài năm, hai nhà vật lý
người Anh Paul Steinhardt và Neil Turok đã giải thích vụ nổ nguyên
sơ theo thuyết Brane. Theo đó, vũ trụ của chúng ta trước vụ nổ
nguyên sơ vốn lạnh giá, trống rỗng, và chỉ nhờ vào năng lượng va đập
với Brane kia, nó mới được hâm nóng.
Từ vài năm nay, người ta biết rằng
vũ trụ đang giãn nở với tốc độ ngày càng lớn hơn. Do đó, các
thiên hà ngày càng xa rời nhau. Theo thời gian, tất cả các ngôi
sao đều sẽ nguội lạnh, và vũ trụ có thể sẽ trở về trạng thái như
trước vụ nổ nguyên sơ theo thuyết của Steinhardt và Turok. Vấn đề là
bao giờ xảy ra hiện tượng này?
Steinhardt và Turok đã phát triển
tiếp thuyết Brane với sự bổ sung của một thành tố mới:
"năng lượng tối" - nguyên nhân quan
trọng gây giãn nở vũ trụ. Lực của năng lượng tối (chống lại lực hấp
dẫn) trong hệ tọa độ 11 chiều có thể được hình dung như một lò xo
nằm giữa hai Brane. Khi va đập, lò xo đẩy hai Brane ra khỏi nhau,
nhưng khi chúng đã bị kéo ra quá xa, lực lò xo lại co chúng lại. Chu
kỳ này ước tính kéo dài khoảng vài nghìn tỷ năm.
Minh Hy (theo dpa)
11- Năng lượng tối và số
phận bất định của vũ trụ
17/1/2002
Năng lượng tối tác động ngược lại lực hấp dẫn,
gây ra sự giãn nở vũ trụ (hình mô phỏng). |
|
Ý tưởng cho rằng vũ trụ sinh ra từ
vụ nổ Big Bang và sẽ chết đi vì một cú sụp lớn (Big Crunch) ít ra
cũng làm người ta yên tâm về cái gì đó hữu hạn, như số phận con
người. Nhưng gần đây, các nhà thiên văn lại có bằng chứng cho thấy,
vũ trụ sẽ không sụp đổ, mà cứ lan rộng ra mãi. Thủ phạm chính của
hiện tượng này là năng lượng tối.
Theo các nhà thiên văn, vũ trụ chỉ có 5% vật chất thường, tức là có
thể quan sát và đo đạc được. 95% còn lại thuộc loại
vật chất "tối". Trong số vật chất tối
có 33% tồn tại dưới dạng không nhìn thấy được (như các lỗ đen), và
67% còn lại xuất hiện dưới dạng "năng lượng tối" (theo thuyết tương
đối, vật chất và năng lượng có thể hoán chuyển cho nhau). Nguồn năng
lượng tối này trải đều trong vũ trụ, tác động ngược lại lực hấp dẫn,
và đẩy các thiên hà xa rời nhau, khiến vũ trụ ngày càng giãn nở. |
Các nhà nghiên cứu ở Đại
học Washington (Mỹ) đưa ra giả định cho rằng, cách đây khoảng 5 tỷ
năm - tức là 9 tỷ năm sau Big Bang - vũ trụ đã đạt đến độ lớn
mà lực của năng lượng tối vượt lên lực hấp dẫn, khiến vũ trụ chỉ có
thể giãn nở ra thêm chứ không co lại được nữa. Như vậy, một sự
sụp đổ theo kiểu "Big Crunch" là điều không thể xảy ra.
Vậy thì vũ trụ sẽ giãn nở đến đâu?
Câu trả lời là, nó sẽ giãn nở mãi mãi, vì chưa hề có bằng chứng nào
cho thấy là quá trình đó sẽ dừng lại. Sẽ không có một ngày tận
thế nào hết. Đành rằng đã có một sự mở đầu là Big Bang, nhưng
mãi mãi sẽ không có sự kết thúc! Số phận của vũ trụ là như vậy, cứ
loang rộng ra, cứ trải năng lượng ra... nhưng không hề có mục đích
gì, và cũng chẳng bao giờ dừng lại.
Đó có phải là bí mật tận cùng của
vũ trụ? Chưa ai trả lời được câu hỏi này, cũng như chưa ai hiểu gì
về bản chất của "năng lượng tối" và "vật chất
tối". Các nhà vật lý ở Washington đang cố gắng đặt những nền
tảng đầu tiên cho việc nghiên cứu loại vật chất và năng lượng này.
Năm 1998, lần đầu tiên các nhà vật
lý thiên văn ngồi lại với nhau để đàm luận về năng lượng tối khi
phát hiện ra một siêu tân tinh lạ. Ánh
sáng của siêu tân tinh này yếu hơn nhiều so với những tính toán dựa
trên mô hình vũ trụ chuẩn (trong đó, những yếu tố quan trọng là các
lực vũ trụ, trọng lượng và tuổi đời của ngôi sao). Vị trí lạ lùng
này của ngôi sao bắt buộc người ta bổ sung thêm một yếu tố mới vào
mô hình vũ trụ - yếu tố đã đẩy ngôi sao ra xa hơn bình thường. Đó
chính là năng lượng tối.
Minh Hy (theo
dpa)
12-
Thống nhất lý thuyết về vật chất tối
4/10/2001
Mô hình vũ trụ bùng nổ và giãn nở từ một điểm Big Bang (màu vàng
nhạt).
|
|
Vũ trụ chỉ có 5% vật chất thường,
tức là có thể quan sát và đo đạc được. 95% kia thuộc loại "bất bình
thường", hay còn gọi là vật chất "tối". Hiện có tới 40 lý thuyết nói
về loại vật chất này, nhưng mâu thuẫn nhau ở nhiều điểm, gây trở
ngại cho việc nghiên cứu. Khắc phục điều đó, các nhà khoa học Mỹ mới
đưa ra một giải pháp thống nhất.
Theo tính toán, trong số vật chất tối, có 33% tồn tại dưới dạng vật
chất không nhìn thấy được (như các lỗ đen), và 67% còn lại xuất hiện
dưới dạng "năng lượng tối" (theo thuyết tương đối, vật chất và năng
lượng có thể hoán chuyển cho nhau). |
Nguồn năng lượng tối này trải đều
trong vũ trụ, tác động ngược lại lực hấp dẫn, đẩy các thiên hà xa
rời nhau, khiến vũ trụ ngày càng giãn nở. Vì vậy, việc nghiên cứu
năng lượng tối là phần quan trọng nhất trong việc nghiên cứu vật
chất tối nói chung.
Theo đề nghị của nhà vật lý nổi
tiếng Neal Dalal, Đại học California ở San Diego (Mỹ), người ta sẽ
thống nhất tất cả 40 lý thuyết về năng lượng tối thành một lý thuyết
duy nhất. Để làm được điều đó, Dalal đưa ra ba thông số:
-
Thông số thứ nhất cho biết trọng lượng
trung bình của năng lượng tối.
-
Thông số thứ hai miêu tả lực tương tác
giữa năng lượng tối với lực hấp dẫn.
-
Thông số thứ ba biểu đạt lực hút giữa
năng lượng tối và vật chất bình thường.
Những thí nghiệm tương lai về
trạng thái của năng lượng tối sẽ cho phép các nhà khoa học xác định
được giá trị của các thông số nêu trên. Tiếp theo, họ sẽ so sánh
những con số này với các lý thuyết hiện nay để loại bỏ các luận điểm
bất hợp lý. Cuối cùng, họ sẽ kết hợp các thông số để tổng hợp thành
những công thức biểu đạt trạng thái lý thuyết của vật chất tối.
Minh Hy (theo
dpa)
13- Vũ
trụ đang mở rộng
5/4/2001
Siêu lân tinh cực xa được tìm thấy trong hệ ngân hà này |
|
Luồng sáng chói mắt bùng lên từ
một siêu lân tinh cực xa. Xuyên qua thứ ánh sáng rực rỡ đó, kính
thiên văn Hubble đã “nhìn” ra một lực huyền bí nào đó đang tác dụng
ngược lại với lực hấp dẫn và đẩy các hệ ngân hà ra xa nhau. Phát
hiện này đánh dấu một trong những khám phá có ý nghĩa nhất trong
lịch sử về trạng thái tự nhiên của vũ trụ: Nó đang nở rộng. |
Siêu lân tinh, một ngôi sao đang
bùng nổ, nằm cách cách trái đất khoảng 10 tỷ năm ánh sáng, vật thể
xa nhất mà con người từng phát hiện được. Nó phát quang dường như
mạnh hơn nhiều so với bình thường và lý giải duy nhất cho hiện tượng
này là sự tồn tại của một dạng “năng lượng tối” bí hiểm lan toả
trong vũ trụ.
Khái niệm “năng lượng tối”, lực
đẩy đã mang các hệ thiên hà ra xa nhau với tốc độ tăng lên không
ngừng, lần đầu tiên được Albert Einstein đưa ra và thảo luận vào thế
kỷ trước.
Củng cố giả thuyết
Cách đây 3 năm, khi nghiên cứu thứ
ánh sáng mờ nhạt không bình thường của một số siêu lân tinh ở xa,
các nhà thiên văn đã nhận thấy vũ trụ đang mở rộng với tốc độ nhanh
hơn trong quá khứ và họ cho rằng sự nở ra đó chỉ bắt đầu gần đây.
Người ta đã cố gắng giải thích hiệu ứng tăng tốc này bằng nhiều cách
khác nhau, trong đó có cả ý tưởng “năng lượng tối”.
Nay, những quan sát mới nhất do
Hubble chụp được đã củng cố thêm ý tưởng này. Các nhà khoa học đã có
những bằng chứng đầu tiên cho thấy, sau vụ nổ Big Bang, lực hấp dẫn
(trọng lực) đã làm chậm lại tốc độ mở rộng của vũ trụ. Và chỉ đến
gần đây, năng lượng tối mới chiến thắng sức hút của trọng
lực và bắt đầu đẩy các hệ thiên hà ra xa nhau.
“Dường như vũ trụ thể hiện thái độ
của một người lái xe vậy. Anh ta giảm tốc độ trước đèn đỏ và sau đó
tăng vọt ga khi đèn xanh bật lên”, Adam Riess, Viện Khoa học Thiên
văn Không gian Mỹ ví von.
B.H. (theo BBC,
5/4)
15- Bản đồ lớn nhất
về vũ trụ xác nhận năng lượng tối
29/10/2003
Các
thiên hà được xác định trong không gian hai
chiều (phải) sau đó được đo khoảng cách và đặt vào bản đồ ba chiều
(trái). |
|
Các nhà thiên văn vừa biên soạn xong một bản đồ lớn
và chi tiết nhất về vũ trụ từ trước đến nay. Họ tin rằng bản đồ này
cũng loại bỏ những nghi ngờ cuối cùng về sự tồn tại của một loại
“năng lượng tối” lan tỏa khắp các thiên hà.
Bản đồ 3 chiều chứa 20.000 thiên hà và bao phủ
khoảng 6% không gian vũ trụ. Những thiên hà xa nhất mà nó ghi nhận
nằm cách chúng ta 2 tỷ năm ánh sáng.
Bản đồ được xây dựng từ Hệ thống Khảo sát Bầu trời
Số Sloan - một chương trình quốc tế với sự tham gia của hơn 200 nhà
thiên văn từ 13 viện nghiên cứu trên khắp thế giới. |
Để xây dựng công trình này, các
nhà thiên văn trước tiên xác định những thiên hà đơn lẻ trên những
bức ảnh chụp ở góc độ lớn, được thu thập bởi kính thiên văn đặt tại
đài quan sát Apache Point, New Mexico. Tiếp đó, họ sử dụng hệ thống
sợi quang đặc biệt của kính thiên văn để ghi lại quang phổ của 608
thiên hà cùng lúc, cho phép tính toán khoảng cách mỗi thiên hà và
đặt nó vào vị trí chính xác trong bản đồ 3 chiều.
Cho đến giữa thập kỷ 1990, hầu hết các nhà
vũ trụ học tin rằng lực hấp dẫn được tạo bởi vật chất thông thường và những
vật chất tối không nhìn thấy. Tuy nhiên, các vụ nổ sao trong những khoảng
không gian xa xôi được phát hiện sau đó đã gợi ý rằng, một lực vũ trụ nào đó
đang đẩy vũ trụ giãn ra. Các nhà thiên văn gọi lực này là năng lượng tối.
Tháng 2/2003, các nhà nghiên cứu đã hợp
nhất số liệu từ một bản đồ thiên hà quy mô lớn (cuộc khảo sát 2dF của Anh-
Ausatralia về dịch chuyển đỏ của thiên hà) với dữ liệu hồi cứ về vụ nổ Big
Bang (do tàu thăm dò WMAP của NASA thực hiện). Kết quả tổng hợp đã cung cấp
những bằng chứng mạnh mẽ về năng lượng tối.
Công trình mới này cung cấp kết quả tương
tự nhưng có độ chính xác cao hơn, và đẩy lùi những nghi ngờ về sự tồn tại
của loại năng lượng này. Nó cũng xác nhận rằng 70% của vũ trụ là năng lượng
tối, 25% là vật chất tối và chỉ có 5% là vật chất thông thường - những thứ
tạo nên trái đất và các ngôi sao. Với việc năng lượng tối được xác nhận về
mặt quan sát, các nhà lý thuyết nay sẽ phải đưa ra lời giải thích chính xác
về thành phần, cấu tạo của nó.
B.H. (theo NewScientist)
16- Năng lượng
tối cũng ảnh hưởng tới sự sống
5/11/2002
Năng lượng tối làm vũ trụ giãn nở ngày càng nhanh. |
|
Các nhà vật lý thiên văn Mỹ mới
đưa ra lý thuyết cho rằng, sự sống chỉ có thể xuất hiện ở những hệ
mặt trời cùng độ tuổi với thái dương hệ của chúng ta. Lý do là sự
gia tăng của năng lượng tối làm các hệ sao xuất hiện sau này ngày
càng có kích cỡ nhỏ hơn, nên không đủ khả năng tạo ra những hành
tinh như trái đất. Nhóm nghiên cứu
của Jaume Garriga, Đại học Barcelona (Tây Ban Nha), và Alexander
Vilenkin, Đại học Tufts ở Medford, bang Massachusetts (Mỹ), cho
rằng, các hệ sao mới quá nhỏ bé để có thể tạo ra các hành tinh chứa
silic và sắt - hai nguyên tố quan trọng của sự sống. |
Lý do là trong một hệ mặt trời nhỏ, nếu
một hành tinh xuất hiện và chứa các nguyên tố như sắt và silic, thì nó sẽ
quá nặng, và sẽ bị hút ngay vào sao mẹ (nói chung, xác suất để một hành tinh
bị hút vào sao mẹ ở hệ mặt trời bé thường lớn gấp nhiều lần ở hệ mặt trời
lớn).
Vì sao các hệ mặt trời sinh ra sau này
(sau hệ mặt trời của chúng ta) ngày càng nhỏ đi? Câu trả lời nằm ở hoạt động
của năng lượng tối. Theo các nhà vật lý, lần đầu tiên khái niệm năng lượng
tối được đưa ra là ở phương trình vũ trụ của Einstein. Năng lượng tối tạo ra
một phản lực, hướng ngược lại lực hấp dẫn, khiến vũ trụ ngày càng giãn nở.
Tuy nhiên, đến nay người ta vẫn chưa hề biết gì về nó.
Những quan sát gần đây cho thấy, vũ trụ
của chúng ta ngày càng giãn nở, chứng tỏ năng lượng tối đã vượt lên lực hấp
dẫn. Nhiều nhà khoa học cho rằng vũ trụ không thể co lại được nữa. Số phận
của nó là bất định và buồn thảm. Nó sẽ giãn nở ra mãi mãi, cho đến lúc các
vì sao tách ra xa hẳn nhau và tàn lụi. Vũ trụ khi đó sẽ rất rộng, loãng,
lạnh và tối, nhưng không thể co lại để tái sinh.
Hệ mặt trời được sinh ra vào một thời điểm
may mắn hiếm thấy (cách đây 4,5 tỷ năm), khi mà vũ trụ còn đủ đậm đặc để cho
ra đời và nuôi dưỡng một hệ thống các hành tinh như chúng ta thấy ngày nay.
Theo các nhà khoa học, các hệ sao được tạo ra sau thời gian đó sẽ không thể
hội tụ đủ điều kiện để nuôi dưỡng một hành tinh như trái đất nữa. Nói cách
khác, không thể có sự sống ở các hệ sao sau đó.
Minh Hy (theo dpa)
17- Hạt vũ trụ
gây ra những vụ động đất lớn
16/5/2002
Quark lạ sinh ra từ vụ nổ sao.
|
|
4 vụ chấn động lớn được các sensor
ghi nhận năm 1993 không phải là động đất bình thường, mà có nguyên
nhân từ năng lượng tối. Đó là các hạt quark lạ, di chuyển với tốc độ
sát gần ánh sáng, đi xuyên qua trái đất.
Theo một thông báo của các nhà khoa học quốc tế đăng trên London
Telegraph mới đây, thì đó là các chùm hạt "tối" rất khó phát
hiện. Tuy nhiên, sự tồn tại của chúng đã được khẳng định từ 20 năm
nay. Trong thông báo lần này, các nhà khoa học đã phân tích 2 sự
kiện động đất năm 1993 để chỉ ra ảnh hưởng của các chùm hạt tối với
trái đất. |
Sự kiện thứ nhất xảy ra ngày
22/10/1993, khi một số máy đo địa chấn đặt ở Thổ Nhĩ Kỳ và Bolivia
phát hiện các chấn động lớn ở Nam Cực, tương đương với sức công phá
của hàng nghìn tấn TNT. Chấn động này xuyên qua trái đất và thoát ra
ở Ấn Độ Dương, gần Sri Lanka, 26 giây sau đó. Tốc độ di chuyển của
chấn động là 1.380.000 km/h.
Sự kiện thứ hai xảy ra ngày
24/11/1993. Các sensor ghi nhận chấn rung lớn ở Thái Bình Dương, gần
quần đảo Pitcairn. Sau đó 19 giây, chấn động đi qua trái đất và
thoát ra khỏi Nam Cực. Tốc độ di chuyển lần này của chấn động cũng
là 1.380.000 km/h.
Các nhà vật lý và địa chất học
tổng kết: "Câu giải thích duy nhất cho các chấn động loại này là sự
tấn công của các hạt quark lạ nặng nhiều tấn".
Mới đây, người ta đã quan sát được
hai sao quark, là nơi tập trung các hạt
quark lạ. Đó là các hạt hạ nguyên tử, có khối lượng lớn khủng khiếp,
mật độ vật chất cao gấp 10 nghìn tỷ các nguyên tử bình thường. Một
đám quark nhỏ như hạt bụi cũng có khối lượng vài tấn.
Quark lạ được xem là các hạt rất
bền vững, di chuyển với tốc độ gần bằng ánh sáng. Mọi cố gắng bắt
giữ hạt này đến nay đều thất bại. Các nhà khoa học cho rằng, phát
hiện các hạt quark lạ là bước ngoặt lớn trong việc giải đáp nhiều
điều bí ẩn về bản chất của vật chất tối - loại vật chất chiếm tới
90% khối lượng vũ trụ.
Minh Hy (theo
Cosmiverse)
18- Sao quark -
một dạng vật chất mới
12/4/2002
Một trong hai sao quark mới quan sát được bằng kính thiên văn
Chandra. |
|
Kính thiên văn vệ tinh Chandra mới
quan sát được hai ngôi sao lạ đường kính vài kilomét, có khối
lượng lớn gấp nhiều lần các ngôi sao khác. Theo phỏng đoán của các
nhà khoa học Mỹ, chúng có thể được cấu thành từ các hạt quark - một
dạng tồn tại hoàn toàn mới của vật chất trong thiên nhiên.
Trái đất và mặt trời được cấu thành từ các nguyên tử. Cấu trúc của
nguyên tử gồm proton mang điện dương, neutron trung tính và electron
mang điện âm. Electron chạy trên các quỹ đạo xung quanh hạt nhân
(gồm proton và neutron). Giữa chúng là các khoảng trống rất lớn. Như
vậy, cấu trúc nguyên tử thực ra là một cấu trúc "xốp", và vật chất
của trái đất là mặt trời thuộc loại "nhẹ". |
Tuy nhiên trong các vụ nổ sao, cấu
trúc nguyên tử có thể bị phá vỡ, tạo thành các khối "vật chất
nặng" từ các hạt nhỏ hơn nguyên tử. Một trong những dạng tồn tại phổ
biến của vật chất nặng là sao neutron. Đến nay, những sao này (gồm
các hạt neutron xếp sát nhau) là các cấu trúc vật chất dày đặc nhất
trong vũ trụ. Một thìa nhỏ neutron có khối lượng khoảng 1 tỷ tấn.
Trên thực tế, proton và neutron
còn có thể phân chia thành các hạt hạ nguyên tử (subatomic), hay còn
gọi là các hạt quark. Ở sao neutron, giữa các quark còn có khoảng
trống do tương tác điện từ giữa chúng.
Tuy nhiên, theo phỏng đoán của các
khoa học, tại hai ngôi sao mới quan sát được thì các quark này thuộc
loại quark "lạ", và chúng có thể xếp sát với nhau. Nếu đúng vậy thì
đây là dạng vật chất nặng nhất mà người ta từng quan sát được.
Minh Hy (theo
dpa)
19- Phát
hiện một thiên hà tí hon ở rất xa
6/10/2001
Ảnh bên trái là toàn cảnh của Abell 2218 chụp năm
1999. Ảnh nhỏ góc trên, bên phải chứa hai điểm đỏ là ảnh của thiên
hà mới chụp qua thấu kính Abell 2218.
Thiên hà xa xôi nhìn từ trái đất. |
|
Đây có thể là thiên hà xa nhất mà con người từng
biết tới, nằm cách trái đất khoảng 13,4 tỷ năm ánh sáng. Để nhìn
thấy nó, người ta phải nhờ đến thấu kính hấp dẫn - chùm thiên hà
Abell 2218 (tương tự như một loại kính lúp trong tự nhiên), phóng
đại ánh sáng của thiên hà này lên 30 lần.
Thấu kính hấp dẫn là một dạng hiệu ứng quang học
trong vũ trụ. Nó bao gồm một chùm vật thể mà khi nhìn qua đó, người
ta thấy được các thiên hà, vật thể khác ở phía xa hơn.
Một nhóm các nhà thiên văn quốc tế đã khám phá ra
hiện tượng "thấu kính hấp dẫn" khi quan sát thấy 6 ảnh của cùng một
thiên hà. Hiện tượng này sinh ra do tác động của lực hấp dẫn từ cụm
ba thiên hà khác nằm giữa giữa thiên hà xa lắc kia và trái đất.
Thấu kính hấp dẫn (gravitational lens), được dự
đoán lần đầu tiên bởi Albert Einstein, là một hiện tượng đặc biệt
cho phép các nhà khoa học thăm dò các vùng xa xôi trong vũ trụ chi
tiết hơn theo cách thông thường.
"Thấu kính hẫp dẫn" lần này có tên là CLASS
B1359+154. Nó bao gồm một thiên hà nằm cách chúng ta hơn 11 tỷ
năm ánh sáng, trong chòm sao Bootes. Nằm giữa thiên hà này và
trái đất là một chùm ba thiên hà khác, cách chúng ta hơn 7 tỷ
năm ánh sáng.
|
Lực hấp dẫn của chùm ba thiên hà ở
giữa khiến ánh sáng và sóng radio từ thiên hà đơn tới trái đất bị
chệch hướng. Và thay vì một ảnh, các kính thiên văn của chúng ta lại
"nhìn ra" có tới 6 thiên hà. 4 trong số đó nằm bên ngoài vùng tam
giác tạo thành bởi ba thiên hà trung gian, hai ảnh còn lại nằm bên
trong vùng đó.
"Hệ thấu kính này là trường hợp
nghiên cứu rất thú vị vì nó phức tạp hơn các thấu kính được tạo ra
bởi những thiên hà đơn, và lại đơn giản hơn các thấu kính được tạo
ra bởi một nhóm lớn các thiên hà”, Chris Kochanek, của Trung tâm Vật
lý thiên văn Harvard-Smithsonian, Mỹ, cho biết.
B1359+154 được một nhóm thiên văn
quốc tế phát hiện ra năm 1999. Các nhà nghiên cứu hy vọng thấu kính
vũ trụ 6 chiều này sẽ tiết lộ những thông tin mới về sự tương tác
giữa các thiên hà.
B.H. (theo
BBC
20- NASA
kết nối hai kính thiên văn khổng lồ
16/3/2001
"2 trong 1" sẽ giúp quan sát rõ hơn. |
|
Mới đây, Cơ quan Hàng không Vũ trụ Mỹ (NASA) đã lắp ghép thành
công 2 kính thiên văn lớn nhất thế giới thành một thiết bị duy
nhất có đường kính lên tới 85 m. Thiết bị này mang tên Dụng cụ
đo giao thoa Keck, được đặt tại Mauna Kea ở Hawaii.
“Kết hợp thành công ánh sáng từ 2 kính thiên văn
lớn nhất thế giới là một tiến bộ khoa học vượt bậc. Nó sẽ mở ra khả
năng thu thập được các hình ảnh về vũ trụ rõ nét nhất từ trước đến
nay”, nhà nghiên cứu thiên văn của NASA, Anne Kinney, cho biết. |
Đêm 12/3, Kech đã tạo ra được bức
ảnh tổng hợp về HD61294, một ngôi sao mờ nhạt trong chòm sao Lynx.
Chùm sáng do 2 kính thu nhận về được giao thoa với nhau và chiếu vào
một camera. Nhờ sự kết hợp này, các nhiễu hình ảnh do tầng khí quyển
trái đất gây ra đã bị loại bỏ, ảnh thu được trở nên rõ nét hơn.
NASA sẽ tiếp tục kiểm tra cặp kính
này trong vài tháng tới, trước khi sử dụng nó vào nhiều nhiệm vụ
khác nhau. Một trong số đó là tiếp tục tìm kiếm các hành tinh nằm
ngoài hệ mặt trời của chúng ta.
Từ năm 1995, các nhà thiên văn đã
tìm thấy hơn 50 hành tinh quay quanh các ngôi sao khác. Tuy nhiên,
với công nghệ hiện nay, họ chỉ có thể tìm được các hành tinh cực lớn
cỡ sao Mộc, nằm gần với các mặt trời “phụ huynh” của chúng. Nhờ
Keck, các nhà khoa học sẽ phát hiện được các hành tinh nằm xa hơn -
các hành tinh có nhiều khả năng nuôi dưỡng sự sống.
Với việc kết nối thành công này,
dụng cụ đo giao thoa của NASA đã đi vào hoạt động trước một dự án
tương tự ở châu Âu - Dự án về Kính thiên văn cực lớn (VLT) tại Đài
Quan sát của Tây Âu đặt tại Chile. VLT bao gồm 4 kính thiên văn cỡ
8,5 m. Hiện 3 trong số đó đã đi vào hoạt động.
B.H (theo BBC)
21-
Discovery tránh rác vũ trụ
15/3/2001
Trạm ISS với mô đun Leonardo ở bên cạnh. |
|
Hôm qua (14/3), James Wetherbee, chỉ huy tàu
con thoi Discovery, đã phải cho phóng các tên lửa định hướng của
tàu sớm hơn kế hoạch một chút để nâng tàu con thoi và Trạm Không
gian Quốc tế gắn kèm với nó lên cao, vượt ra khỏi đường đi của
một vật thể (rác) lơ lửng trong vũ trụ.
“Rác” này chính là một thiết bị
giống như cái mỏ cặp, cho phép các nhà du hành gắn mình vào cánh tay
robot của tàu con thoi khi đi ra ngoài không gian. Nó đã bị James
Voss đánh rơi trong chuyến ra ngoài hôm 11/3.
|
“Nó đã rời xa chúng tôi ngay trong
chuyến ra ngoài không gian đầu tiên”, phát ngôn viên của NASA,
Eileen Hawley cho biết. Nhưng thiết bị nặng chưa đầy 5 kg này không
đi xa hẳn khỏi tàu. Nếu quỹ đạo của Discovery không được nâng lên,
mẩu "rác" trên sẽ đi ngang qua Trạm Không gian Quốc tế chưa đầy 60
m, khoảng cách này là quá nguy hiểm.
Hawley cho biết, theo chương trình
tàu con thoi sẽ nâng quỹ đạo 3 lần để đưa trạm vào quỹ đạo phù hợp.
B.H (theo CNN,
15/3)
22- Hố
đen từng thống trị vũ trụ
14/3/2001
Các hố đen trong vũ trụ "nhìn" bằng tia X.
|
|
Hàng trăm tỷ hố đen có thể đã lấp
đầy vũ trụ ở buổi “bình minh” của nó. Những hố đen khổng lồ này
“nuốt chửng” khí, bụi và cả các ngôi sao, đồng thời phát ra vô số
chùm tia X đi chu du qua vũ trụ trong hàng tỷ năm.
Điều này được các nhà khoa học Mỹ
công bố hôm qua (13/3, tại sở chỉ huy của NASA.
Bức tranh trên là một cảnh về buổi
sơ khai của vũ trụ được Chandar, Đài thiên văn tia X đang quay trên
quỹ đạo, chụp từ một khu vực nhỏ trên bầu trời. Trong chuyến thám
hiểm dài ngày của mình, Chandra đã thu nhận được các dòng tia X yếu
ớt cách xa nó hơn 12 tỷ năm ánh sáng. |
“Dữ liệu của Chandra cho thấy
trong quá khứ, những hố đen khổng lồ đã hoạt động mạnh hơn hiện nay
rất nhiều”, Riccardo Giacconi, nhà Thiên văn học tại Đại học Johns
Hopkins, cho biết. Và “nếu bạn nhìn lên bầu trời bằng con mắt tia X,
bạn sẽ không nhìn thấy gì ngoại trừ các hố đen”, Bruce, Giáo sư
Thiên văn học tại Đại học Washington giải thích thêm.
Chụp ảnh tia X phát ra từ các hố
đen
Hố đen đã được đề cập rất nhiều
trong các giả thuyết. Chúng là các thiên thể khổng lồ trong vũ trụ
có sức hút mãnh liệt đến nỗi không có vật nào, kể cả ánh sáng, thoát
được ra ngoài. Vì hố đen không cho ánh sáng phát ra, người ta chỉ
tìm thấy chúng nhờ hiệu ứng mà chúng tạo ra trên lớp khí bụi và các
ngôi sao xung quanh. Trước khi bị hút vào lỗ đen, vật chất được tăng
tốc đạt tới gần tốc độ ánh sáng, làm khu vực này nóng lên hàng triệu
độ và giải phóng ra các chùm tia X.
Nhờ chụp được ảnh các chùm tia X
mờ nhạt này, Chandra đã xác nhận giả thuyết cho rằng vũ trụ buổi ban
đầu tràn ngập các hố đen hoạt động và các hố đen đó đã phát ra tia X
xuyên qua vũ trụ. Một nhà thiên văn cho biết “Chúng tôi sử dụng tia
X để lội ngược thời gian, trở về thời điểm cách đây vài tỷ năm.
Chúng tôi thấy rằng vũ trụ đã bị thống trị bởi các hố đen khổng lồ”.
Căn cứ vào mật độ hố đen mà
Chandra tìm được trong một khoảng nhỏ trên bầu trời, người ta ước
tính có khoảng 300 triệu thiên thể tương tự trong phạm vi của kính
thiên văn. Và trên toàn bầu trời có hàng trăm tỷ hố đen như thế.
B.H (theo AP)
23- Ánh sáng vĩnh hằng
trên mặt trăng
21/3/2004
Những vùng trên mặt trăng không bao giờ tối. |
|
Các nhà thiên văn đã tìm thấy những
vùng trên xứ sở của chị Hằng mà ở đó ánh mặt trời không bao giờ tắt.
Đó là 4 khu vực trên rìa miệng hố Peary rộng 73 km trên cực Bắc mặt
trăng.
Nhóm nghiên cứu, dẫn đầu bởi tiến
sĩ Ben Bussey thuộc Đại học Johns Hopkins ở Mỹ, đã xem xét các bức
ảnh chụp cực mặt trăng do tàu thăm dò Clementine chụp năm 1994. Họ
tạo ra một bộ phim thể hiện sự thay đổi độ chiếu sáng trên các vùng
trong một tháng. |
Trục tự quay của mặt trăng nghiêng
khoảng 1,5 độ so với mặt phẳng quỹ đạo của trái đất quanh mặt trời.
Kết quả là mặt trăng có mùa ngắn hơn trên trái đất, và qua mỗi mùa,
điều kiện chiếu sáng lại thay đổi đáng kể tại các cực của nó. Có
những đáy hố và thành miệng hố hướng về cực không bao giờ được đón
ánh mặt trời.
Giới nghiên cứu từng tin rằng,
không có nơi nào trên mặt trăng được chiếu sáng mãi mãi - mặc dù một
số công trình đã xác định được vài điểm trên cực Bắc sáng trong 95%
thời gian. Tuy nhiên, phân tích của nhóm thuộc Đại học Johns Hopkins
cho thấy, kết luận này có thể là quá vội vàng.
Không giống như ở cực Nam của mặt
trăng, nơi không có ngọn núi nào sáng vĩnh viễn, cực bắc có những
đỉnh được mặt trời chiếu rọi triền miên - ít nhất là trong mùa hè
mặt trăng.
Phát biểu tại Hội thảo khoa học
Hành tinh và Mặt trăng ở Houston, Texas, Ben Bussey cảnh báo rằng,
việc chiếu sáng vĩnh viễn có thể là một hiệu ứng theo mùa mà sẽ biến
mất trong mùa đông (vì chúng ta chưa có dữ liệu vào mùa đó).
Phát hiện về vùng sáng thường
xuyên này khiến cho cực Bắc mặt trăng trở thành một địa điểm thú vị
để thám hiểm và để đặt trạm nghiên cứu đầu tiên trên vệ tinh này.
B.H. (theo BBC)
24- Lý giải từ trường bí ẩn của sao Hải Vương, Thiên Vương
11/03/2004
|
|
Hai hành tinh áp chót trong hệ mặt
trời cũng có từ trường, nhưng lại phân bố rất trái khoáy so với từ
trường trên trái đất. Các nhà khoa học Mỹ nay đã có lời giải cho
hiện tượng đó.
Hầu hết các hành tinh đều có từ
trường lưỡng cực, với một cực nam và một cực bắc nằm cách đều qua
trục ảo nối giữa hai cực địa lý của nó. |
Sao Hải Vương và hàng xóm
Thiên Vương của nó có từ trường khác biệt với hầu hết các hành tinh
trong thái dương hệ. |
|
Từ trường của trái đất nằm lệch 11
độ so với cực địa lý, trong khi của Mộc tinh chếch 10 độ. Rất nhiều
hành tinh khác cũng có đặc điểm tương tự như vậy, như hành tinh khí
khổng lồ Mộc tinh, Thổ tinh, mặt trăng Ganymede của Mộc tinh và có
thể cả sao Thủy.
Song với sao Hải Vương và Thiên
Vương, đường sức từ lại không chạy về hai cực mà xiên theo những góc
lộn xộn, cách tương ứng 47 và 59 độ so với trục địa lý. |
10 năm trước, các nhà khoa học
từng phỏng đoán rằng hiện tượng dị thường đó là kết quả của quá
trình tuần hoàn trong lớp vỏ mỏng của hành tinh (chứ không phải ở
lớp thạch quyển sát gần nhân như trên trái đất). Lớp vỏ này là một
tầng "băng" lỏng tích điện, tạo bởi nước, methane, ammoni và hydro
sunphit.
Sabine Stanley và giáo sư Jeremy Bloxham từ Đại học Harvard nay đã
thử nghiệm giả thuyết trên một mô hình toán học, và chỉ ra rằng sự
đối lưu trong lớp vỏ băng mỏng quả thực là căn nguyên tạo nên từ
trường đặc biệt của hai thiên thể. Họ nhận định từ trường này được
sinh ra do các dao động lỏng phức tạp trong những vùng dẫn điện của
hành tinh.
Trong khi đó trên trái đất, chuyển
động của lớp nhân lỏng bên ngoài mới làm phát sinh từ trường.
B.H. ABConline
25- Tiểu
hành tinh' thứ 10 lạnh lẽo và xa xôi nhất
16/03/2004
|
|
Thông báo chính thức chiều qua của
Cơ quan Vũ trụ Mỹ (NASA) cho biết, thiên thể mới được tìm thấy là
thế giới tối tăm và băng giá nhất trong thái dương hệ. Nó nhỏ hơn
Diêm Vương tinh chút xíu và ở khoảng cách xa gấp đôi.
"Tiểu hành tinh" mới (được đặt tên
là Sedna, theo tên nữ thần Inuit, người đã tạo ra các sinh vật trên
biển Bắc cực) nằm cách mặt trời hơn 13 tỷ km và nhiệt độ của nó chưa
bao giờ vượt quá âm 240 độ C.
|
Phác thảo về tiểu
hành tinh Sedna, phía xa là mặt trời |
|
"Mặt trời nhìn từ khoảng cách này nhỏ đến mức bạn
có thể nhầm nó với đầu một cái đinh ghim", Mike Brown, một nhà thiên
văn tại Viện Công nghệ California, trưởng nhóm nghiên cứu, cho biết. |
|
|
Sedna đồng thời cũng là
một trong những vật thể đỏ nhất trong thái dương hệ, chỉ
thua kém Hoả tinh. Phải mất 10.500 năm trái đất nó mới chạy
hết một vòng quỹ đạo hình elip xung quanh mặt trời.
Brown và các nhà thiên văn
khác đã phát hiện ra Sedna hôm 14/11 năm ngoái, trong một
cuộc điều tra vùng ngoài hệ mặt trời. Khi quan sát sâu vào
không gian, họ nhận thấy các ngôi sao và các vật thể vũ trụ
đứng yên khác, cùng với một vật thể chuyển động rất chậm mà
về sau được gọi là Sedna |
Vị trí của Sedna
trong hệ mặt trời: Từ trong ra lần lượt là mặt trời và các
hành tinh bên trong, sao Mộc (Jupiter), sao Thổ (Saturn),
sao Thiên Vương (Uranus), sao Hải Vương (Neptune), sao Diêm
Vương (Pluto) và Sedna. Con số đi kèm với mỗi hành tinh là
khoảng cách từ đó đến mặt trời, tính theo đơn vị AU.
|
|
Các ngôi sao và vật thể ngoài hệ mặt trời
thường ở quá xa, nên với người quan sát trên trái đất chúng
gần như bất động. Vì thế, chúng được các nhà thiên văn sử
dụng làm nền để quan sát chuyển động của các vật thể gần hơn
trong hệ mặt trời - ND. |
"Bất cứ thứ gì chuyển động rất chậm băng ngang
qua bầu trời, chúng tôi biết rằng đó phải là một thành phần của hệ
mặt trời: một vệ tinh, một hành tinh hay một tiểu hành tinh", Brown
cho biết. "Nhưng đây là vật thể chuyển động chậm nhất từng được nhìn
thấy trong không gian, và chúng tôi biết nó phải nằm ở rất xa".
Sedna tự quay quanh mình một vòng hết 40 ngày -
một chuyển động chậm đến mức các nhà thiên văn dự đoán có một mặt
trăng đang kìm hãm tốc độ quay của nó. Để kiểm nghiệm điều này,
Brown và cộng sự đã sử dụng Đài thiên văn vũ trụ Hubble để quan sát.
26- Tiểu hành tinh, không
phải là hành tinh
|
|
Brian Marsden, giám đốc trung tâm Tiểu
hành tinh thuộc Hiệp hội Thiên văn Quốc tế, nhận xét Sedna
là một phần của hệ mặt trời, nhưng không có nghĩa là một
hành tinh. |
Kích cỡ của Sedna so với trái đất,
mặt trăng, sao Thuỷ và sao Diêm Vương. |
|
"Tôi cho rằng sẽ là sai lầm nếu gọi nó là
hành tinh thứ 10. Giống như thể lầm lẫn trong việc gọi sao
Diêm Vương là hành tinh thứ 9 vậy", Marsden nói. |
Để được xếp vào dạng hành tinh,
các vật thể vũ trụ phải đạt đến một kích cỡ nào đó, và Diêm Vương
tinh ở giới hạn dưới của kích cỡ này, Marsden nhận xét. Ông cảm thấy
sao Diêm Vương không đạt tiêu chuẩn - quỹ đạo của nó không tròn mà
cũng chẳng thuộc cùng một mặt phẳng với quỹ đạo của các hành tinh
khác trong hệ.
Vì Sedna nhỏ hơn (bằng 3/4) và
lệch tâm hơn so với sao Diêm Vương, Marsden nghi ngờ về thứ hạng
hành tinh của nó. Brown đồng ý với đánh giá này, và thậm chí cả với
quan điểm của Marsden cho rằng Diêm Vương tinh không phải là hành
tinh.
Thứ hai, 15/3/2004, 15:49 GMT+7
27- Tìm thấy hành tinh thứ 10
trong hệ mặt trời?
|
|
Nằm xa hơn bất cứ hành tinh nào khác trong thái
dương hệ, thiên thể vừa phát hiện có đường kính lớn
xấp xỉ sao Diêm Vương (2.500 km), và được gọi là Sedna, theo
tên nữ thần biển Inuit. |
Kính thiên văn vũ trụ Spitzer đã
phát hiện ra vật thể này.
|
|
Phát hiện rất có thể lại làm dấy lên một cuộc
tranh cãi về việc có nên xếp nó là một hành tinh thực sự hay không,
bởi nếu đúng, người ta sẽ phải định nghĩa lại về hệ mặt trời |
Sedna là vật thể lớn nhất được tìm
thấy bay quanh mặt trời kể từ sau phát hiện ra sao Diêm Vương năm
1930. Tuy nhiên, các nhà quan sát vẫn không chắc lắm về kích cỡ của
nó. Một nhà thiên văn cho biết nó thậm chí có thể còn "bự" hơn cả
Diêm Vương tinh - vốn đã được liệt vào diện hành tinh.
Thiên thể này được tìm thấy trong
một cuộc khảo sát do tiến sĩ Michael Brown, thuộc Viện công nghệ
California, đứng đầu tiến hành. Những tính toán sơ bộ cho thấy nó
nằm cách trái đất khoảng 10 tỷ km, trong vành đai Kuiper (vùng biên
hệ mặt trời, phía ngoài sao Hải Vương, có dạng đĩa với vô số thiên
thể băng).
Điều quan trọng của Sedna là ở chỗ
nó là vật thể đầu tiên được tìm thấy bay trên một quỹ đạo thường
gặp, trong khi các thiên thể khá lớn khác như Quaoar và Vanura cũng
xuất phát từ vành đai Kuiper, nhưng lại đi lạc sang các quỹ đạo khác
nhau.
Một nhóm các nhà thiên văn tin
rằng sao Diêm Vương cũng không phải là một hành tinh thực sự, mà chỉ
là một vật thể lớn nhất trong vô số các vật thể tí hon ở vùng ngoài
của hệ mặt trời mà thôi.
Chi tiết về phát hiện này sẽ được
Cơ quan vũ trụ Mỹ NASA công bố chiều nay
B.H. Reuters
28- Trái đất từng là một quả cầu tuyết khổng lồ
18/03/2004
|
|
Sự tan vỡ của những mảng lục địa cổ đại đã biến
trái đất thành một địa ngục băng hà kéo dài trong hàng triệu năm.
Trên quả cầu tuyết này, băng bao phủ mọi lục địa và biển đóng băng
cho đến tận đường xích đạo - một hiện tượng xảy ra ít nhất 2 lần
trong khoảng 800-550 triệu năm trước. |
Thời kỳ Băng Hà dường như vô tận
này đã được mở ra như thế nào đến nay vẫn là một điều bí ẩn. Trước
đó, một số nhà khoa học cho rằng mặt trời đột ngột bị lạnh đi trong
một khoảng thời gian, hoặc trái đất bị nghiêng trên trục của nó làm
cho sức nóng mặt trời bị suy giảm. Nhưng nghiên cứu mới nhất do các
chuyên gia tại Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia của Pháp
(CNRS) và Đại học Florida (Mỹ) thực hiện, đã mở ra tia sáng về một
giả thuyết ít được để mắt tới: những cú lắc giật địa chất đã xé rách
bề mặt trái đất và tạo nên một hiệu ứng nhà băng.
Vào thời điểm đó, các lục địa ngày
nay gắn kết thành một siêu lục địa gọi là Rodinia, một thực thể rộng
lớn đến nỗi mưa từ biển không thể vào sâu trong lục địa. Khi Rodinia
bị xé tách thành các mảnh nhỏ, lượng mưa đã thay đổi một cách nhanh
chóng. Mưa rơi xuống những hòn đá bazan mới được phun lên từ miệng
núi lửa và tạo ra một phản ứng giữa nước và canxi silicat. Trong đó,
CO2 được tách ra khỏi không khí và cô lập thành canxi carbonate, sau
đó rửa trôi ra biển.
Mô hình máy tính ngày nay cho thấy
việc hút khí nhà kính CO2 ra khỏi không khí đã gây nên đợt đông lạnh
kinh hoàng. Nó ngược lại với hiệu ứng nhà kính, khi mà lượng CO2
tăng lên làm nóng trái đất.
Theo sự mô phỏng thì trước khi
Rodinia tan vỡ khoảng 800 triệu năm trước, hàm lượng CO2 trong khí
quyển là 1.830 phần triệu (ppm), và nhiệt độ toàn cầu trung bình là
10,8 độ C. Đến thời điểm Rodinia tan vỡ, 50 triệu năm sau, bức tranh
đã hoàn toàn khác. Hàm lượng CO2 là 510 ppm và nhiệt độ trung bình
là 2 độ C.
"Sự thay đổi địa chất đã tạo ra
một sự chuyển dịch ghê gớm từ khí hậu nhà kính tới khí hậu nhà băng
trong kỷ Đại nguyên sinh mới. Kết hợp với phản ứng giữa đá và mưa đã
biến trái đất thành một quả cầu tuyết khổng lồ", các nhà khoa học
kết luận.
Minh Thi ABC
Online
29- Phát
hiện thiên hà ở xa 15,5 tỷ năm ánh sáng
Vị trí của thiên hà (mũi tên) trong bức ảnh của kính thiên văn Keck |
|
Có sự giúp đỡ của chiếc kính thiên
văn Keck ở Hawaii, người ta mới quan sát được ánh sáng rất yếu của
thiên hà xa "khó tưởng tượng" này. Phát hiện có thể làm thay đổi
lịch sử vũ trụ, bởi vì đến nay các nhà khoa học vẫn cho rằng, vụ nổ
Big Bang chỉ xảy ra cách đây khoảng trên 13 tỷ năm.
Sự có mặt của thiên hà cách xa 15,5 tỷ năm ánh sáng cho thấy, Big
Bang phải xảy ra cách đây ít nhất 16 tỷ năm |
Thiên hà mới quan sát được đã xuất
hiện ở thời điểm mà những ngôi sao đầu tiên ra đời. Đây là
khoảng thời gian "tối tăm" trong kho kiến thức của loài người về
lịch sử vũ trụ. "Đến nay, người ta hầu như chưa biết gì về vũ trụ
trong khoảng 1 tỷ năm đầu tiên", bà Esther Hu, trưởng nhóm nghiên
cứu, nói
|
|
Phân tích ánh sáng thu được, các nhà khoa học cho
rằng, thiên hà này gồm các chuẩn tinh phát sáng mạnh xen giữa
những đám mây khí sôi sục. Theo Hu, phát hiện này khiến người ta
phải "đẩy lùi ngày sinh của vũ trụ thêm ít nhất là 2 tỷ năm".
Thành tựu cũng cho phép các nhà khoa học giả định
rằng còn có những thiên hà xa hơn nữa có thể được phát hiện bằng
kính thiên văn Keck |
Ảnh chụp thiên hà phóng to.