|
- Hai vũ trụ có thể đã tồn tại
trước Big Bang
- Chụp được hình ảnh 800
triệu năm sau vụ nổ Big Bang
- Từ trường uốn thẳng vũ
trụ cong
- Giấc mơ "đi ngược thời gian" có thể thành hiện thực
- Tìm lại vũ trụ thời trứng nước
- Tàu MAP lên đường tìm quá khứ
- Tàu thăm dò MAP đã đến tọa độ dự kiến
- Trạng thái thứ tư của vật chất ở sát điểm 0 tuyệt đối
- Trạng thái thứ tư của vật chất
- Ngôi sao đầu tiên xuất hiện rất sớm
- Chụp được hình ảnh của ánh sáng nguyên thủy
- Bí mật của chớp Gamma
- Công bố bản đồ về tia vũ trụ sau Big Bang
- Vũ trụ được định hình trong hàng tỷ năm
- Những hành tinh đi hoang
- 3 chuẩn tinh (quasar)
khổng lồ có thể chứa hố đen
- Bí mật xung quanh chuẩn tinh chứa sắt
- Lập mô hình về sự bùng nổ của các siêu tân
tinh
- Kính thiên
văn XMM-Newton truyền về những hình ảnh đầu tiên
- Chụp được tia vũ trụ cách đây 14 tỷ năm
- Tìm thấy chuẩn tinh từ thời “trung cổ” của vũ
trụ
- 40 năm thuyết Big Bang về sự tạo thành và giãn
nở của vũ trụ
1- Hai vũ trụ có thể đã tồn tại
trước Big Bang
Tồn tại hay không vũ trụ ẩn, song song với vũ trụ của chúng ta
|
|
Giả thuyết mới về nguồn gốc của vũ
trụ đang thu hút các nhà thiên văn học với ý tưởng rằng đã xuất hiện
một vụ “Big Splat” trước vụ nổ Big Bang. Theo đó, rất có thể một vũ
trụ khác đã tồn tại song song với vũ trụ của chúng ta.
Paul Steinhardt và cộng sự tại Đại
học Princeton (Anh) đã đưa ra một mô hình về vũ trụ thời kỳ trước
Big Bang, trong đó giải thích những chi tiết quan trọng về trạng
thái tự nhiên của vũ trụ chúng ta, chẳng hạn tại sao vũ trụ
mở rộng.
|
Giả thuyết này đã được phác thảo tại Đại học Cambridge ở
Anh và Viện Khoa học Thiên văn Vũ trụ ở MỹTheo thuyết Big Bang, khoảng 15 tỷ
năm trước, vũ trụ hình thành khi một “quả cầu lửa” khổng lồ với
nhiệt độ cao hơn 10 tỷ độ, bùng nổ chỉ trong khoảnh khắc 1 giây. Đến
nay, giả thuyết này vẫn đầy sức thuyết phục và ít người tranh cãi về
nó
Ý tưởng của Steinhardt về nguồn gốc của vũ trụ
không phủ nhận vụ nổ Big Bang mà chỉ nghiên cứu vũ trụ trước khi xảy
ra vụ nổ đó. Theo giả thuyết này, vũ trụ từng có 11 chiều. 6 trong
số đó cuốn theo các chiều cực mảnh, đến nỗi hầu như bị bỏ qua. Vũ
trụ chỉ thực sự hoạt động trong 5 chiều. Ngoài chiều thời gian, vũ
trụ bao gồm hai bề mặt trải theo 4 hướng phẳng hoàn hảo. Một trong
hai bề mặt này là vũ trụ của chúng ta, mặt kia chính là một vũ trụ
“ẩn” khác
Theo các nhà nghiên cứu Princeton, những dao động
ngẫu nhiên của vũ trụ không nhìn thấy này đã bóp méo chính nó, khiến
nó chạm vào vũ trụ của chúng ta
B.H. (theo BBC,
7/6/2001)
2- Chụp được hình ảnh 800
triệu năm sau vụ nổ Big Bang
|
|
“Tôi thật sự ngây ngất trước tầm
vóc của những kết quả đo được. Nó làm thay đổi nhiều quan niệm đã
bám rễ trong đầu các nhà thiên văn, nhưng nó sẽ củng cố vững chắc
hơn những nền tảng mới”. Đó là phát biểu của ông Anneila I. Sargent,
Chủ tịch Hội Thiên văn học Mỹ trong buổi họp ngày 5/6 tại Pasadena,
California. |
Trong buổi họp, những nhà khoa học thuộc nhóm
Sloan Digital Sky Survey (Sloan) công bố hình ảnh mới chụp được của
hai chuẩn tinh ở thời điểm hình thành, khoảng 800 triệu năm sau vụ
nổ lớn (Big Bang). Đây là bước tiến xa nhất của nhân loại trên
con đường tìm về quá khứ. Với kết quả này, Sloan đang đưa chúng
ta về gần sát ngày sinh của vũ trụ cách đây khoảng 13 tỷ năm
Chuẩn tinh là những thiên thể nhìn giống ngôi
sao, ở trung tâm của những thiên hà rất xa. Chúng là nguồn phát bức
xạ điện từ rất mạnh. Bức xạ của một chuẩn tinh có thể lớn gấp nghìn
tỷ lần bức xạ mặt trời. Các nhà khoa học Sloan phỏng đoán, nguồn
cung cấp năng lượng cho những chuẩn tinh rất có thể là lỗ đen ở
những thiên hà bên cạnh
Cùng ngày, nhóm Sloan công bố các số liệu đầu
tiên của kết quả quan sát được, đồng thời đưa ra những số liệu chính
xác của tổng số 14 triệu thiên thể nằm rải rác trong thiên hà. Trong
đó, ngoài 13.000 chuẩn tinh đã được nhắc đến còn có 26 trong số 30
chuẩn tinh xa nhất mới quan sát được trong thời gian gần đây
Với thành tựu này, nhóm khoa học Sloan đã đóng
góp to lớn cho sự phát triển của ngành thiên văn học. Nhiều thiên
thể sẽ được phát hiện trong thời gian tới
Đi xa hơn nữa, họ còn xây dựng mô hình trình bày
kết quả quan sát được trong không gian ba chiều. Nhờ đó, khoảng cách
giữa những thiên thể cũng được tính toán chính xác trên máy tính.
Kết quả mới nhất cho thấy, thực tế, số tiểu hành tinh lang thang
trong vành đai sao (khoảng không gian giữa sao Hỏa và sao Mộc) ít
hơn rất nhiều so với những con số phỏng đoán trước đó. Vì vậy, lo
ngại về tai họa thực sự do va đập của các tiểu hành tinh trong hệ
mặt trời tỏ ra không xác đáng
Hiện nay, Sloan quan sát được khoảng gần 100
triệu thiên thể. Trong đó chỉ có khoảng 3.000 thiên thể có thể quan
sát được bằng mắt thường. Các nhà nghiên cứu dự định sẽ hoàn tất và
công bố toàn bộ số liệu về những thiên thể trong vòng 5 năm tới. Đây
sẽ là nguồn dữ liệu lớn nhất trong lịch sử nghiên cứu thiên văn học
Minh Hi (theo AP, CNN, SPIEGEL,
6/6/2001)
3- Từ trường uốn thẳng vũ
trụ cong
|
|
Nhà vật lý Christos Tsagas, Đại
học Portsmouth, Mỹ mới đưa ra một giả thuyết cho rằng: Lực từ trường
có thể sẽ nắn lại không gian bị bẻ cong (theo thuyết tương đối rộng
của Einstein). Điều này dẫn tới những nghi ngờ về giả thuyết cho
rằng, một vũ trụ nguyên khai đã bùng nổ rất nhanh ngay sau thời điểm
Big Bang… |
Trường điện từ có thể uốn thẳng không gian cong |
|
“Từ trường làm vũ trụ trở nên
“cứng” hơn. Chúng ta có thể tưởng tượng không - thời gian như một
cái lốp cao su, còn từ trường như những sợi dây thép trong lốp. |
Những “sợi” từ trường vô hình này tác động ngược lại “lực
uốn” của không gian cong, khiến vũ trụ cứng hơn và bằng phẳng trở
lại”, Tsagas nói
Đa số các nhà vật lý lý thuyết hiện nay đều cho
rằng, ở thời điểm ngay sau vụ nổ Big Bang, không - thời gian bị bẻ
với góc cong sát mức tuyệt đối (trong lỗ đen, không gian cong tuyệt
đối). Quá trình “duỗi” ra của góc cong này giải toả nguồn năng lượng
vô cùng lớn. Trong thời gian vũ trụ giãn nở nhanh chóng, năng lượng
biến thành vật chất và các hành tinh được hình thành
Tuy nhiên, nếu giả thuyết của Tsagas đúng thì
ngay tại thời điểm vũ trụ sơ khai, lực điện từ đã tác động ngược lại
quá trình “duỗi” này và vũ trụ đã không thể bùng nổ nhanh như vậy
Vấn đề tưởng như đơn giản nhưng lại rất trừu
tượng và khó hiểu. Và điều đáng ngạc nhiên là trước đó không ai nghĩ
tới điều ấy. Hầu như tất cả các nhà vật lý đều cho rằng, từ trường
quá yếu để có thể tác động đến không - thời gian. Chính vì thế không
có ai nghĩ tới việc kết hợp thuyết tương đối rộng với thuyết trường
điện từ để giải thích nguồn gốc và bề mặt vũ trụ
Về thuyết tương đối rộng
“Vũ trụ hữu hạn nhưng không có đường biên” hoặc
“Khoảng cách ngắn nhất giữa hai điểm không phải là đường thẳng” là
những phát biểu nổi tiếng rút ra từ thuyết tương đối rộng của
Einstein. Chúng được giải thích bằng mô hình vũ trụ trong hệ toạ độ
bốn chiều (không - thời gian). Theo đó không gian bị trường hấp dẫn
bẻ cong. Khi ánh sáng đi qua những miền không gian có sóng hấp dẫn
cực mạnh, nó sẽ bị đổi hướng. Đặc biệt, khi qua những vùng hấp dẫn
mạnh của các sao nơtron, ánh sáng sẽ bị bẻ gập ngược lại. Còn lỗ đen
là những vùng không gian bị uốn cong vô hạn, ánh sáng đi qua sẽ bị
hút mất vĩnh viễn
“Trường điện từ thuộc về không - thời gian. Nó là
một bộ phận không thể tách rời khỏi ngôi nhà không - thời gian. Vì
vậy, sự bẻ cong không - thời gian phải có liên quan mật thiết tới
trường điện từ", Tsagas nói
Minh Hi (theo Nature,
12/6/2001)
4- Giấc mơ "đi ngược thời
gian" có thể thành hiện thực
|
|
Đây không phải là chuyện giật gân,
cũng không phải là viễn tưởng, bởi vì chúng được xây dựng trên nền
tảng lý thuyết sáng sủa và những kiểm nghiệm khoa học mới nhất của
GS Ronald Mallet, Đại học Connecticut, Mỹ. Ông cho rằng chúng ta có
khả năng đi ngược thời gian! Mallet
không đi theo cách tiếp cận của các nhà nghiên cứu máy thời gian
khác, cho rằng vũ trụ có những cấu trúc xoắn ốc, những "lỗ sâu đục"
và chúng ta hầu như không có khả năng xâm nhập, vì nó đòi hỏi một
“năng lượng âm” rất lớn |
Khi bắt thời gian quay, ta có thể trở về quá khứ |
|
|
Ông cũng không theo quan điểm của nhà logic học
Kurt Goedel, người đầu tiên khởi xướng thuyết máy thời gian, cho
rằng sự hiện hữu của một “vũ trụ quay” là điều tất yếu. Hoàn toàn
theo cách ngược lại, Mallet đã dựa trên những nền tảng vật lý sáng
sủa nhất: Thuyết không gian cong của Einstein và thuyết lượng tử ánh
sáng
Vùng trũng thời gian
Mỗi thiên thạch, khi chuyển động đều gây ra một
trường hấp dẫn ảnh hưởng tới không gian và thời gian xung quanh nó,
ảnh hưởng này tỷ lệ thuận theo khối lượng của thiên thạch. Trong
những trường hợp nhất định, các "gợn sóng" trong không gian gây ra
bởi những chuyển động trên có thể làm thời gian bị uốn cong. Tương
tự như một viên sỏi đặt trên chiếc gối mềm, không-thời gian
(hệ toạ độ 4 chiều, trong đó thời gian là chiều thứ 4) cũng có những
vùng trũng tương tự. Cũng theo những tính toán lý thuyết thì, “bằng
cách nào đó”, thời gian có thể bị làm trũng đến mức nó không còn
chạy thẳng nữa mà sẽ chạy theo vòng tròn
Trước nay, các nhà khoa học đều nhất trí cho rằng
trung tâm hấp dẫn chính là trung tâm của không-thời gian bị bẻ cong,
và họ dồn mọi nỗ lực nghiên cứu theo hướng ấy. Mallett đi theo hướng
khác. Ông nghiên cứu các thuộc tính của ánh sáng theo thuyết tương
đối rộng và thuyết lượng tử. Theo đó, ánh sáng thực ra không có
khối lượng, nhưng nó có thể bị bẻ cong khi đi qua một trường hấp dẫn
cực lớn và khi đó không gian cũng bị bẻ cong
Năm ngoái, trong một bài đăng trên tạp chí khoa
học New Scientist, Mallett đã chỉ ra rằng, tia laser khi chuyển động
trên đường tròn sẽ sản sinh ra một trường xoáy xung quanh nó. Mới
đây, ông lại giả định rằng những trường xoáy ánh sáng loại này đang
giãn nở dần trong không-thời gian. Nhưng, để xảy ra một trường hợp
đó thì theo tính toán lý thuyết, cần có một laser thứ hai. Khi nó
chuyển động ngược chiều với tia laser thứ nhất, cường độ của nó cũng
được tăng lên tương ứng. Khi đó không gian và thời gian sẽ hoán vị
vai trò cho nhau và thời gian sẽ "quay" ở phía trong của vòng laser!
Theo đó, về mặt lý thuyết, loài người có thể tìm
ngược về quá khứ của mình, ít nhất cũng về đến thời điểm mà vòng
tròn được khép kín
Ánh sáng chậm dần...
Một vấn đề cơ bản nhưng rất khó giải quyết, đó
là: Khi bắt thời gian chạy vào một vòng tròn, ta cần một năng lượng
lớn khủng khiếp. Việc tạo ra nguồn năng lượng này nằm ngoài khả năng
của chúng ta hiện nay. Mallet đề nghị giải pháp “hãm thời gian” để
giảm đòi hỏi năng lượng.Theo định luật “nếu ánh sáng càng chậm dần
thì mức độ nhiễu loạn trong không-thời gian càng lớn” và nhiễu loạn
này sinh ra năng lượng hỗ trợ cho việc bẻ cong thời gian
Mallet muốn dùng chiếc máy thời gian laser “hãm”
ánh sáng làm cho nó chuyển động chậm đến mức có thể. Cuối cùng, ông
đã làm được một điều kỳ diệu: Hãm ánh sáng từ tốc độ 300.000 km/s
tới lúc nó dừng lại hoàn toàn! “Điều đó đã mở ra một vùng trời mới
mà chúng ta chưa bao giờ dám mơ tưởng đến”, Mallet nói
Tuy nhiên, việc “hãm” tốc độ ánh sáng trên chỉ có
thể thực hiện ở môi trường nhiệt độ sát gần điểm không tuyệt đối
(-273 độ C). Chính vì thế, nếu thử nghiệm chế tạo máy thời gian của
Mallet thành công thì chúng ta vẫn phải đối đầu với một vấn đề hết
sức nan giải: Làm thế nào để cơ thể con người có thể thích ứng được
với nhiệt độ “băng hà” ấy để “du hành” trong thời gian?
(Hiện nay, Mallett mới chỉ tiến hành những thực
nghiệm nhỏ. Bước thứ nhất là đo những tác động của vòng quay laser
vào một nguyên tử đơn).
Minh Hi (theo SPIEGEL,
23/5/2001)
5-Tìm lại vũ trụ thời
trứng nước
Tàu thăm dò MAP |
|
Tàu thăm dò MAP đã hoàn thành thử nghiệm cuối
cùng hôm 12/6 và sẵn sàng cho chuyến thám hiểm ngày 30/6 tới. MAP có
nhiệm vụ cung cấp những hình ảnh nguyên thủy của ánh sáng sau vụ nổ
lớn (Big Bang), nhằm giải đáp những bí ẩn khoa học lớn như: vũ trụ
được sinh ra thế nào, cấu trúc cơ bản và số phận của nó sẽ ra sao?
Tàu sẽ được phóng đi từ căn cứ Canaveral,
Florida, Mỹ, thực hiện hành trình dài 3 tháng để tới được toạ độ
quan sát cách trái đất 1,5 triệu km |
Từ quỹ đạo quan sát, MAP (Microwave Anisotropy
Probe) sẽ chụp và đo nhiệt độ ánh sáng nguyên thuỷ tức là ánh sáng
hình thành sau vụ nổ Big Bang. Nó có thể tính ra những chênh lệch
nhiệt độ cực nhỏ (1/1,8 triệu độ). Sau khi xác định chính xác sự
thay đổi nhiệt độ này, MAP sẽ tự động tính ra khoảng cách giữa những
bước sóng nhỏ nhất của ánh sáng phát ra. Từ đó, nó sẽ phác ra một
bức tranh về sự thay đổi quang phổ ánh sáng ở những giây đầu tiên
sau Big Bang
Mặt khác, sự chênh lệch nhiệt độ ánh sáng sẽ cho
ta biết sự thay đổi mật độ vật chất ở thời điểm sơ khai. Phân tích
cho thấy, những cấu trúc đặc thù của vũ trụ hiện nay đã hình thành ở
những vùng có mật độ vật chất rất cao
“Chúng tôi đang thực hiện cuộc tìm kiếm những
hình ảnh nguyên thuỷ nhất của vũ trụ, một hoá thạch ánh
sáng sẽ là bằng chứng giá trị nhất về vũ trụ sơ khai”, ông Alan
Bunner, Trung tâm Nghiên cứu Cấu trúc vũ trụ của NASA nói
Mầm sống của vũ trụ
Năm 1965, các nhà khoa học đã tìm ra bức xạ sóng
siêu ngắn đầu tiên sau vụ nổ Big Bang. Nhưng vào thời điểm ấy, họ
không tìm thấy sự khác biệt nào trong dãy hình ảnh quang phổ. Mãi
tới năm 1992, trung tâm COBE thuộc NASA mới phát hiện ra sự khác
biệt rất nhỏ về nhiệt độ, từ đó phác họa một cấu trúc đơn giản về
hình ảnh bức xạ của ánh sáng nguyên thuỷ
Ánh sáng nguyên thuỷ có dạng những sóng cực ngắn
(microwave). "Hoá thạch" của nó phát ra từ trung tâm xa xôi nhất của
vũ trụ. Các sóng này chính là những mầm sống của vũ trụ. Tất cả các
thiên hà và các hành tinh đều có nguồn gốc từ những mầm sống này.
Nếu tìm ra cấu trúc của chúng, ta sẽ tìm ra chiếc chìa khóa mở ra
toàn bộ lịch sử cũng như số phận của vũ trụ!
Nếu tất cả đều suôn sẻ, tàu MAP sẽ đến địa điểm
ấn định sau 3 tháng. Nó sẽ dừng lại trên không trung 18 tháng nữa để
phân tích dữ liệu. Tức là khoảng tháng 3/2003, có thể chúng ta sẽ
biết được “nội dung” của những mầm sống. “Tôi hy vọng kết quả tìm
được sẽ làm thay đổi toàn bộ hình dung của con người về vũ trụ”, ông
Charles Bennet, Tổng điều hành dự án MAP, nói
Minh Hi (theo CNN, Reuters,
13/6/2001)
6- Tàu MAP lên đường tìm quá
khứ
|
|
15h46’ hôm nay, 30/6 (giờ Florida, tức 2h46’ sáng mai, giờ Hà Nội ),
tàu thăm dò MAP sẽ khởi hành chuyến bay “ngược về quá khứ”, nhằm tìm
kiếm những hình ảnh của vũ trụ nguyên thủy sau vụ nổ Big Bang. Dự
báo thời tiết không được tốt lắm: khả năng để MAP có thể cất cánh là
60% |
Một mô hình tàu thăm dò MAP |
|
|
Theo tính toán, MAP sẽ chu du
trong vũ trụ khoảng 3 tháng, trước khi nó tới được toạ độ quan sát
cách trái đất 1,5 triệu km.
NASA đã đầu tư 145 triệu USD cho
kế hoạch này. So với tàu thăm dò CBE (Cosmic Background Explorer)
trước đó, MAP có thể cung cấp những hình ảnh xa hơn và chính xác hơn
gấp 1.000 lần.
“MAP sẽ giúp chúng ta giải đáp
được những bí ẩn khoa học lớn nhất từ xưa đến nay như: vũ trụ được
hình thành thế nào và số phận của nó sẽ ra sao?”, ông Alan Bunner,
Trung tâm Nghiên cứu Cấu trúc vũ trụ của NASA, nói
Minh Hy (theo CNN, 30/6/2001)
7- Tàu thăm dò MAP đã đến
tọa độ dự kiến
Sau 3 tháng phiêu du, con tàu với sứ mệnh "khám phá
bí mật vũ trụ" đã đến được tọa độ quan sát cách trái đất 1,5 triệu
km. Tại vị trí này, MAP sẽ chụp và gửi về trái đất những hình ảnh sơ
khai nhất của ánh sáng sau vụ nổ Big Bang.
MAP là tàu thăm dò đầu tiên phóng lên quỹ đạo L2
(thoát mọi ảnh hưởng hấp dẫn của trái đất, mặt trời và mặt trăng).
Từ quỹ đạo này, MAP sẽ chụp và đo bức xạ ánh sáng nguyên thuỷ, rồi
tính ra sự thay đổi quang phổ ánh sáng ở những giây đầu tiên sau vụ
nổ Big Bang.
Ánh sáng nguyên thuỷ có dạng những sóng cực ngắn
(microwave). Chúng được phát ra từ trung tâm xa xôi nhất của vũ trụ,
và chính là những "mầm sống" sơ khai nhất. Các thiên hà, ngôi sao và
hành tinh đều có nguồn gốc từ những "mầm sống" này. Nếu khám phá
thành công bí mật của chúng, người ta sẽ hiểu vũ trụ đã được hình
thành thế nào.
Những hình ảnh đầu tiên về ánh sáng nguyên thuỷ dự
định sẽ được gửi về vào cuối năm 2002, hoặc đầu năm 2003.
Minh Hy (theo
CNN 4/10/2001)
8- Trạng thái thứ tư của vật chất ở sát
điểm 0 tuyệt đối
|
|
Các nhà khoa học Mỹ mới khám phá trạng thái
plasma của vật chất ở 3 phần tỷ độ K (sát điểm không tuyệt đối), rất
giống trạng thái trong nhân của các ngôi sao trẻ. Điều này có ý
nghĩa lớn cho việc giải thích thế giới sau vụ nổ Big Bang, mở ra
hướng mới trong nghiên cứu vật liệu |
Hoá đặc Bose-Einstein ở gần điểm 0 tuyệt đối |
|
|
Theo sách giáo khoa, vật chất tồn tại ở ba thể:
rắn, lỏng và khí. Tuy nhiên, còn một trạng thái thứ tư mà mãi gần
đây người ta mới đề cập tới: trạng thái plasma - một thể "nhầy" đặc
biệt của vật chất mà các nguyên tử bị tách mất điện tử. Đó là những
trạng thái plasma "nóng", có thể tìm thấy trong những màn hình
plasma, ống kính plasma... Tuy nhiên, chúng ta chưa bao giờ nghe nói
đến một trạng thái plasma "lạnh" của vật chất ở sát điểm 0 tuyệt đối
Năm 1924, Albert Einstein (Đức) và Satyendra Bose
(Ấn Độ) đưa ra một giả thuyết cho rằng, ở nhiệt độ gần điểm không
tuyệt đối (-273 độ C), các nguyên tử không còn chuyển động tự do nữa
mà sẽ co lại thành một dạng nguyên tử đồng nhất. Khi đó, vật chất sẽ
"hóa đặc" trong một khối, còn gọi là hóa đặc Bose-Einstein
Tuy nhiên, phải 70 năm sau giả thuyết trên mới
được chứng minh bằng thực nghiệm trên đồng vị Rubiđi 87 ở nhiệt độ
gần sát mức 0 độ K. "Hóa đặc" tạo ra lần đó là một dạng nguyên tử
đồng nhất, cực kỳ bền vững
Lần này Carl Wieman và Eric Cornell, Đại học
Colorado (Mỹ), làm thí nghiệm với đồng vị nhẹ của Rubiđi ở nhiệt độ
3 phần tỷ độ K (nhiệt độ thấp nhất hiện nay). Thoạt đầu "hóa đặc"
tạo ra cũng rất bền vững. Nhưng khi nó bị tác động của một từ trường
mạnh thì một hiện tượng rất lạ đã xảy ra: "hóa đặc" phồng lên, bồng
bềnh ở trạng thái plasma, rồi đột ngột nổ tung. Về tính chất, vụ nổ
này rất giống các vụ nổ bên trong của những ngôi sao trẻ
|
|
Khi bùng nổ, "hóa đặc" giải phóng một nguồn năng
lượng rất lớn, đồng thời vụ nổ "ngốn" đến một nửa số nguyên tử trong
nó. Số còn lại "sôi sùng sục" như nham thạch. Quá trình này giống
hệt những phỏng đoán về các hiện tượng vật chất xảy ra sau vụ nổ Big
Bang |
Hoá đặc Bose-Einstein nổ tung dưới tác động của
từ trường |
|
|
Kết quả trên cho thấy: Khi từ trường tác động vào phân tử vật
chất ở nhiệt độ sát điểm 0 tuyệt đối, nó sẽ biến đổi vật chất sang
trạng thái thứ tư (plasma). "Điều này sẽ mở ra các hướng rất
khả quan trên con đường tìm kiếm các loại vật liệu ở những trạng
thái vật chất khác nhau", Wieman nói
Minh Hy (theo SPIEGEL
25/7/2001)
9- Trạng thái thứ tư của vật chất
Cực quang, trạng thái plasma trên Bắc Cực và Nam Cực |
|
Vật chất, ngoài ba trạng thái thường gặp là thể
rắn, lỏng, khí, còn tồn tại ở một dạng đặc biệt khác, được gọi là
"trạng thái plasma", hay là thể khí ion hoá
Hãy lấy nước làm ví dụ: Đun nóng một cục băng đến
mức độ nhất định, nó (ở thể rắn) sẽ biến thành nước (thể lỏng),
nhiệt độ tăng lên nữa nước sẽ bốc hơi (thể khí). Nếu tiếp tục tăng
nhiệt độ nước lên cao nữa, kết quả sẽ là gì?
Khi nhiệt độ chất khí cao hơn vài ngàn độ, các
electron mang điện âm bắt đầu bứt khỏi nguyên tử và chuyển động tự
do, nguyên tử trở thành các ion mang điện dương. Nhiệt độ càng cao
thì số electron bứt ra khỏi nguyên tử chất khí càng nhiều, hiện
tượng này được gọi là sự ion hoá của chất khí |
Các nhà khoa học gọi thể khí ion hóa là “trạng
thái plasma”. Ngoài nhiệt độ cao, người ta có thể dùng các tia tử
ngoại, tia X, tia bêta cực mạnh chiếu vào chất khí cũng làm cho nó
biến thành plasma
Không phải là xa lạ
Có thể bạn cảm thấy trạng thái plasma rất hiếm
gặp. Nhưng thực ra đó là một trạng thái rất phổ biến trong vũ trụ.
Trong lòng phần lớn những vì sao phát sáng đều có nhiệt độ và áp
suất cực cao, vật chất ở đây đều ở trạng thái plasma. Chỉ có ở một
số hành tinh tối và vật chất phân tán trong thiên hà mới có thể tìm
thấy chất rắn, chất lỏng và chất khí
Ngay xung quanh chúng ta cũng thường gặp vật chất
ở trạng thái plasma. Như ở trong ống đèn huỳnh quang, đèn neon hay
trong hồ quang điện sáng chói. Hơn nữa, trong tầng ion xung quanh
trái đất, trong hiện tượng cực quang, trong khí phóng điện sáng chói
ở khí quyển và trong đuôi của các sao chổi đều có thể thấy trạng
thái kỳ diệu này
Theo Bộ Sách
10 vạn câu hỏi vì sao
10- Ngôi sao đầu tiên xuất hiện rất sớm
|
|
Kính thiên văn Hubble mới chụp được ánh sáng của
những ngôi sao cách đây trên 10 tỷ năm. Phân tích những bức ảnh này,
các nhà khoa học Mỹ đưa ra kết luận, ngôi sao đầu tiên có lẽ đã hình
thành chỉ sau Big Bang khoảng 100 triệu năm - sớm hơn mọi phỏng đoán
trước đó |
Một tỷ năm sau Big Bang, các ngôi sao đầu tiên có
thể đã kết hợp lại thành thiên hà như thế này (hình mô phỏn |
|
Lý thuyết cũ cho rằng, ngôi sao đầu tiên xuất
hiện khoảng 1 tỷ năm sau Big Bang, và số lượng các ngôi sao được
sinh ra cứ tăng dần sau đó, rồi đạt mức cực đại vào thời điểm
khoảng 8 -10 tỷ năm |
Tuy nhiên, theo các quan sát mới đây, thì càng gần Big Bang, số
lượng ngôi sao sinh ra càng nhiều, và giảm dần cho đến ngày nay
|
|
Nhóm khoa học của Ken Lanzetta, Đại học Quốc gia
New York ở Stony Brook (Mỹ) đã chụp được ánh sáng của các ngôi sao
hình thành sau Big Bang khoảng 4-5 tỷ năm. Nghiên cứu các bức ảnh
này, Lanzetta thấy rằng, càng sát gần Big Bang, càng có nhiều vệt
sáng xanh - trắng trong các bức ảnh. Những vệt sáng này chính là dấu
vết của những ngôi sao mới. Điều đó cho thấy, càng gần Big Bang, số
lượng sao sinh ra càng nhiều |
Theo mô hình mới, càng gần Big Bang, các ngôi sao
xuất hiện càng nhiều |
|
Theo mô hình của Lanzetta, Big Bang xuất hiện
cách đây khoảng 14 tỷ năm. Thế hệ sao đầu tiên hình thành khoảng 100
triệu năm sau đó, và sau 1 tỷ năm, thiên hà đầu tiên đã xuất hiện |
Minh Hy (theo CNN
9/1/2002)
11- Chụp được hình ảnh của ánh sáng nguyên thủy
|
|
Sử dụng kính thiên văn đặt ở vùng núi cao của Chile, các nhà khoa
học Mỹ mới thu những những hình ảnh sắc nét nhất về ánh sáng nguyên
thủy. Quan sát này đã củng cố lý thuyết về sự hình thành của vật
chất và năng lượng từ các "mầm ánh sáng" sau vụ nổ Big Bang |
Vật chất được tạo thành từ ánh sáng nguyên thủy |
|
Các bức ảnh đã cung cấp một "bản đồ" về những “mầm sống sơ khai” của
vũ trụ từ cách nay trên 14 tỷ năm. Chính chúng tạo ra năng lượng và
vật chất từ các nguyên tử, hình thành thiên hà, ngôi sao, hành
tinh... như ngày nay |
|
|
Trưởng nhóm nghiên cứu , ông Anthony Readhead, nói: “Lần đầu tiên
chúng tôi quan sát đươc rõ nét sự hình thành của ánh sáng nguyên
thủy. Điều này càng tiếp thêm hy vọng quan sát được nguồn gốc
tận cùng của vũ trụ” |
Đài thiên văn ở Atacama, Chile |
|
Đài thiên văn được đặt tại một ngọn núi cao 5.080 mét, tại vùng
hoang mạc hẻo lánh Atacama, Chile. Nó gồm 13 kính thiên văn ghép
lại, có thể khuyếch đại tín hiệu và cung cấp các hình ảnh sắc nét |
Minh Hy (theo BBC
25/5/2002)
12- Bí mật của chớp Gamma
|
|
Chớp Gamma là những vụ nổ mạnh nhất trong vũ trụ, chỉ sau Big Bang.
Trong vòng một giây, tia chớp này phóng ra một năng lượng khủng
khiếp, tương đương với năng lượng mặt trời trong suốt đời sống 10 tỷ
năm của nó. Lâu nay người ta vẫn chưa giải thích được vì sao có chớp
Gamma... |
Ông Hans-Thomas Janka, Viện Vật lý Thiên văn Max
Plank ở Garching (Đức), cho biết, người ta đã quan sát được hàng
nghìn chớp gamma như vậy trong vũ trụ. Mặc dù vậy, nguồn gốc của
chúng vẫn còn rất "mù mịt". Các nhà khoa học mới chỉ biết một điều
tương đối chắc chắn là các vụ nổ này xảy ra ở những vùng rất xa
trong vũ trụ, và tia chớp Gamma đưa lại cho chúng ta ánh sáng từ quá
khứ
Nhờ cường độ mạnh, chớp Gamma có thể đi qua hàng tỷ năm ánh sáng.
Cũng vì thế, các nhà khoa học coi chớp Gamma là sứ giả của thời kỳ
vũ trụ sơ khai, khi mà các ngôi sao đầu tiên mới hình thành
Các đây hai năm, các nhà khoa học Mỹ đã lập một kỷ lục: phát hiện
ánh sáng của tia chớp Gamma cách nay 13 tỷ năm (Big Bang xảy ra cách
đây trên 14 tỷ năm). Rõ ràng, để đi xa như vậy, tia chớp phải giải
phóng một năng lượng lớn khủng khiếp
Câu hỏi là, làm sao chớp Gamma có thể giải phóng năng lượng này?
|
|
Hai nhà khoa học thuộc Viện Công nghệ Massachusetts (Mỹ) - Maurice
van Putten và Amir Levinson - mới đây đã đưa ra một mô hình giải
thích hiện tượng đó. Theo họ, chớp Gamma xuất hiện khi một lượng vật
chất lớn chuyển động nhanh, bị hút xoáy vào lỗ đen rồi bùng nổ |
Mô hình giải thích chớp Gamma. Click vào hình để
xem rõ hơn.
|
|
Mô hình giải thích: Trước khi các mảnh vật chất bị hút mất vào hố
đen, trong khoảng 20 giây, chúng tụ thành hình như chiếc vòng tay
khổng lồ, quay quanh hố đen. |
Theo tính toán, hệ thống này rất kém bền vững, và khi đi vào
không gian cong của hố đen, chúng giải phóng năng lượng dưới dạng
sóng hấp dẫn. Một phần lớn năng lượng này được phóng ra dọc theo từ
trường của hố đen, đó chính là chớp Gamma
Mặc dù giả thuyết của hai nhà khoa học khá logic, nhưng không
phải là không có vấn đề - bởi nó dựa trên hố đen - dạng thiên thể
không quan sát được, mà chỉ có thể giả định là có thực, dựa trên
những chuyển động khác thường của các vật thể xung quanh
Minh Hy (theo SPIEGEL
26/2/2002)
13- Công bố bản đồ về
tia vũ trụ sau Big Bang
|
|
Với độ chính xác đặc biệt, các nhà khoa học Mỹ đã
chụp được hình ảnh của các tia phóng xạ ở thời điểm 300.000 năm sau
vụ nổ Big Bang. Dựa vào đó, lần đầu tiên họ đã lập ra một bản đồ về
tia vũ trụ nguyên thủy - những mầm sống tạo ra các thiên hà và hành
tinh sau này
Vụ nổ Big Bang xảy ra cách
đây trên 14 tỷ năm. Ban đầu, vũ trụ gồm vật chất và năng lượng cô
đặc ở thể "súp nguyên thủy". Sau đó khoảng 300.000 năm, các tia vũ
trụ đầu tiên đã thoát ra từ nồi súp này. Chúng chính là mầm sống để
tạo ra vật chất ở dạng nguyên tử |
Bản đồ tia vũ trụ nguyên thủy |
|
|
Với sự giãn nở của vũ trụ, ánh sáng nguyên thủy
vẫn để lại dấu vết đến ngày nay (dù rất yếu). Chúng là nguồn dữ liệu
duy nhất giúp các nhà vật lý thiên văn tìm về cội nguồn của vũ trụ
Với kính thiên văn Very Small Array đặt
ở Teneriffa, các nhà khoa học Tây Ban Nha đã chụp được những bức xạ
rất yếu của ánh sáng nguyên thủy tại nhiều vùng khác nhau trong vũ
trụ. Họ đã tổng hợp và ghép những "cắt đoạn" này lại thành một mô
hình tổng hợp. Màu sắc khác nhau của những điểm riêng lẻ trong mô
hình cho biết về sự chênh lệch nhiệt độ giữa chúng. Theo lý thuyết,
dựa vào nhiệt độ, người ta có thể suy ra mật độ vật chất ở một khu
vực nhất định
Với mô hình về tia vũ trụ nguyên thủy, các nhà
khoa học Tây Ban Nha đã làm sáng tỏ một bí mật lớn: Tại sao vũ trụ
lại giãn nở được? Từ lâu, các nhà khoa học đã phỏng đoán rằng, ngay
sau Big Bang, vũ trụ đã có sự khác biệt về mật độ vật chất ở các
điểm, bởi chỉ có như vậy nó mới giãn ra được. Tuy nhiên, mãi đến nay
họ mới tìm được bằng chứng thuyết phục cho giả thuyết này
30/5/2002, Minh Hy
(theo dpa)
14-
Vũ trụ được định hình trong hàng tỷ năm
|
|
Trái với quan điểm của nhiều nhà khoa học cho
rằng vũ trụ về cơ bản đã định hình rất sớm (chỉ vài năm sau Big
Bang), các nhà khoa học Mỹ mới tìm ra bằng chứng xác nhận rằng, nó
cần hàng tỷ năm để có được một diện mạo tương đối ổn định như ngày
nay
Hai nhà vật lý thiên văn Stuart Wyithe và Abraham
Loeb, thuộc Trung tâm Vật lý thiên văn Smithsonian ở Harvard (Mỹ),
đã quan sát sánh sáng của các chuẩn tinh ở dải quang phổ ánh sáng đỏ
thông qua hiệu ứng khuếch đại hấp dẫn |
Điểm phồng lên là nơi có hố đen |
|
|
"Khuếch đại" (lensing) là một hiện tượng tự
nhiên, xảy ra khi một hành tinh hoặc một thiên thể di chuyển tự do
trong vũ trụ đột nhiên chắn giữa trái đất và một ngôi sao nào đó.
(Ngôi sao là những thiên thể tự phát sáng, còn hành tinh là những
thiên thể "tối", quay quanh một ngôi sao và được nó chiếu sáng ).
Khi ánh sáng đi qua thiên thể, nó bị trường hấp dẫn của
thiên thể bẻ cong. Người quan sát trên trái đất đo được góc lệch
của ánh sáng. Nếu thiên thể càng lớn thì ánh sáng bị bẻ cong càng
mạnh và góc lệch cũng càng lớn. Dựa trên độ lớn của góc lệch này,
người ta tính ra khối lượng của thiên thể. Hình ảnh quan sát được
gọi là "ảnh giả" (spurious)
Dựa vào các dải quang phổ (ảnh giả) này, hai nhà khoa học đã tính
ra được sự tồn tại của các chuẩn tinh cực lớn, vận
động nhờ năng lượng của các
lỗ đen
khổng lồ ở trung tâm thiên hà. "Chúng tôi có thể phỏng đoán khối
lượng tối thiểu của lỗ đen khi đo lượng ánh sáng từ chuẩn tinh. Nếu
ánh sáng càng mạnh thì năng lượng hố đen càng lớn, tức là nó càng
nặng", Stuart Wyithe (Princeton University) nói
Tính toán cho thấy, các hố đen này nặng gấp khoảng 3 tỷ lần mặt
trời - một khối lượng khủng khiếp, nếu chúng ta biết rằng các hố đen
nhỏ chỉ nặng bằng vài lần mặt trời. "Câu hỏi đặt ra là, làm sao các
hố đen khổng lồ này có thể hình thành? Rõ ràng chúng không thể xuất
hiện một sáng một chiều được, mà cần một quá trình kéo dài hàng tỷ
năm", Wyithe nói
Minh Hy (theo Cosmiverse,
29/6/2002)
15- Những
hành tinh đi hoang
|
|
Kính thiên văn Hubble mới quan sát thấy 6 thiên
thể, chỉ nặng khoảng 80 lần trái đất, đi lang thang trong thiên hà,
hoàn toàn thoát khỏi trường hấp dẫn của các sao mẹ. Đây có lẽ là
những thiên thể nhỏ nhất thoát khỏi quỹ đạo đã từng quan sát được |
Theo các nhà thiên văn, 6 thiên thể mới quan sát
thuộc chùm các ngôi sao nhỏ M22, cách trái đất 8.500 năm ánh sáng.
Để kiểm chứng xác thực hơn, Kailash Sahu và các đồng nghiệp dự định
sẽ quan sát trung tâm của chùm sao trong khoảng một tuần liền
Các nhà thiên văn đã thành công
nhờ sử dụng phương pháp “khuếch đại hấp dẫn” (gravitational
microlensing).
"Khuếch đại" (lensing) là một hiện
tượng tự nhiên, xảy ra khi một hành tinh hoặc một thiên thể di
chuyển tự do trong vũ trụ đột nhiên chắn giữa trái đất và một ngôi
sao nào đó. (Ngôi sao là những thiên thể tự phát sáng, còn hành tinh
là những thiên thể "tối", quay quanh một ngôi sao và được nó chiếu
sáng ). Khi ánh sáng đi qua thiên thể, nó bị trường hấp dẫn của
thiên thể bẻ cong. Người quan sát trên trái đất đo được góc lệch của
ánh sáng. Nếu thiên thể càng lớn thì ánh sáng bị bẻ cong càng mạnh
và góc lệch cũng càng lớn. Dựa trên độ lớn của góc lệch này, người
ta tính ra khối lượng của thiên thể. Hình ảnh quan sát được gọi là
"ảnh giả" (spurious). Theo dõi thời gian xuất hiện ảnh giả và độ
mạnh yếu của nó, cùng với khoảng cách giữa ngôi sao và trái đất,
người ta tính ra được khoảng cách của thiên thể với ngôi sao "mẹ".
Phương pháp này gọi là "khuếch đại hấp dẫn" (gravitational
microlensing).
"Khuếch đại hấp dẫn" đã được sử
dụng để săn đuổi các chùm sao cực nhỏ ở trung tâm và vầng sáng ven
dải ngân hà của chúng ta, cũng như những sao mờ và các hành tinh có
khối lượng nhỏ ở rất xa", Kailash Sahu nói.
Các nhà thiên văn cho biết, tính
được chính xác khối lượng các thiên thể lang thang sẽ mở ra những
khám phá lớn về sự hình thành của các hành tinh và ngôi sao.
Minh Hy (theo
CNN, 29/6/2001)
16- 3 chuẩn tinh
(quasar) khổng lồ có thể chứa hố đen
|
|
Chuẩn tinh= là thiên thể ở
rất xa, giống như ngôi sao, và là nguồn phát ra một bức xã diện từ
rất mạnh (Quasar)
Nhờ kính thiên văn vệ tinh Chandra, các nhà
nghiên cứu mới quan sát được 3 chuẩn tinh xa nhất từ trước đến
nay. Sau khi phân tích ánh sáng của chúng, người ta phỏng đoán có 3
lỗ đen ở trung tâm.
Các chuẩn tinh này được sinh ra khoảng 1 tỷ năm
sau vụ Big Bang, tức là cách nay khoảng 13 tỷ năm. Ánh sáng của
chúng quá yếu và người ta chỉ quan sát được nhờ hiện tượng khuếch
đại hấp dẫn |
Phân tích các bức ảnh chụp tia X, các nhà khoa
học thấy rằng mỗi chuẩn tinh là một khối vật chất vô cùng lớn, cỡ 10
tỷ lần trọng lượng mặt trời. "Sở dĩ chúng nặng khủng khiếp như vậy
vì ở mỗi trung tâm đều có một hố đen, khối lượng gấp khoảng 1 triệu
lần mặt trời", các nhà khoa học phỏng đoán
Người ta chưa hiểu những chuẩn tinh này đã được
hình thành như thế nào. "Theo những điều chúng tôi biết về chuẩn
tinh thì tất cả đều không có hố đen ở giữa. Đây có lẽ là những
trường hợp duy nhất từ trước đến nay", Bà Smita Mathur, Đại học Quốc
gia Ohio (Mỹ), nói
Minh Hy (theo dpa
- 5/4/2002)
17- Bí mật xung quanh chuẩn
tinh chứa sắt
hình của quasar APM
08279+5255 khi dùng kính JKT. APM
08279+5255 là vật thể sáng nhất chưa từng quan sát
|
|
Các nhà nghiên cứu Đức mới phát hiện một
chuẩn tinh chứa lượng sắt cực lớn. Thiên thể này xuất hiện
khoảng 1,5 tỷ năm sau Big Bang, tức là từ thời vũ trụ còn rất non
nớt. Phát hiện này mâu thuẫn với quan điểm lâu nay cho rằng, sắt và
các kim loại nặng chỉ xuất hiện sau khi vũ trụ đã "cứng cáp".
Các nhà khoa học ở Viện Max-Plank về Vật lý (Đức)
đã phân tích ánh sáng của chuẩn tinh APM 08279+5255 từ các bức ảnh
do kính thiên văn chụp tia rơnghen XMM cung cấp. Kết quả cho thấy,
chuẩn tinh này có mật độ sắt lớn gấp 3 lần của hệ mặt trời. "Đó là
con số lớn không thể tưởng tượng được", ông Guenther Hasinger,
trưởng nhóm nghiên cứu nói
|
Vì ở rất xa, chuẩn tinh đồng thời cũng là sứ giả
của vũ trụ sơ khai. Ánh sáng mà Hasinger thu được đã rời khỏi chuẩn
tinh APM 08279+5255 từ cách nay 13,5 tỷ năm, tức là sau Big Bang 1,5
tỷ năm. (Hệ mặt trời của chúng ta mới ra đời cách nay khoảng 4,5 tỷ
năm).
Theo lý thuyết được đa số mọi người chấp nhận thì
các nguyên tố nặng như sắt, chì, vàng... chỉ xuất hiện sau
các vụ nổ siêu tân tinh, và quá trình này kéo dài nhiều tỷ năm.
Vì vậy, việc phát hiện sắt ở một chuẩn tinh 1,5 tỷ năm sau Big Bang
là điều rất khó hiểu. Theo Hasinger, chỉ có hai cách giải thích cho
phát hiện này: hoặc là các nguyên tố hóa học nặng như sắt phải được
hình thành theo một cách nào đó mà người ta chưa biết, hoặc là vũ
trụ thực ra phải già hơn nhiều chứ không phải 15 tỷ năm như ta tưởng
18- Lập mô hình về sự bùng nổ của các siêu tân tinh
Một vụ nổ siêu tân tinh trong máy tính |
|
Khí nóng dồn vào tâm ngôi sao rồi bị đẩy ra ngoài
tạo thành các luồng năng lượng xung đột nhau, gây ra vụ nổ. |
Lần đầu tiên, các nhà vật lý thiên văn lập được
mô hình 3 chiều về sự bùng nổ của siêu tân tinh (supernova) trong
máy tính. Đây là bước tiến lớn trên đường tìm hiểu sự hình thành của
những ngôi sao mẹ bền vững như ở hệ mặt trời của chúng ta từ các vụ
nổ sao trong vũ trụ
Sao khổng lồ thường kết thúc chu kỳ hoạt động
bằng một vụ nổ. Ánh sáng thoát ra từ các vụ nổ như vậy có thể chiếu
sáng cả thiên hà, đồng thời, vật chất và năng lượng từ đó cũng sinh
ra các ngôi sao nhỏ, tạo ra những hệ mặt trời mới. Để tìm hiểu quá
trình này, các nhà khoa học Mỹ đã dựng ra một mô hình máy tính ở
không gian 3 chiều
Nhóm nghiên cứu của Michael Warren và Chris
Fryer, Phòng thí nghiệm Quốc gia Los Alamos của Mỹ, đã tập hợp thông
tin về các vụ nổ của siêu tân tinh. Theo mô hình này, một ngôi sao
nặng ở cuối chu kỳ hoạt động sẽ tập trung lượng khí nén cực lớn ở
tâm của nó. Tại đây, các hạt hạ nguyên tử sôi sục, tạo ra năng lượng
cực lớn, đẩy bóng khí ngược ra ngoài, tạo ra những dòng năng lượng
xung đột nhau, khiến ngôi sao bùng nổ
Việc dựng lại một vụ nổ đó đòi hỏi sự đầu tư cực lớn. "Chúng tôi
cần nghiên cứu mọi khả năng, mọi lực và phản lực trong vũ trụ để đưa
vào mô hình trong phòng thí nghiệm", ông Warren nói
Dựa vào mô hình này, các nhà khoa học hy vọng có
thể tìm hiểu kỹ hơn về sự phát triển của vũ trụ. Khi siêu tân tinh
bùng nổ, các nguyên tố hóa học như ôxy và carbon hình thành. Tại các
đám mây khí, khi nhiệt độ hạ xuống, cũng là thời điểm tạo ra nguyên
tố nặng hơn như đồng và nickel. Có lẽ những nguyên tố hóa học của
trái đất cũng từng hình thành sau một vụ nổ siêu tân tinh như vậy
Minh Hy (theo SPIEGEL -
6/6/2002)
19- Kính thiên
văn XMM-Newton truyền về những hình ảnh đầu tiên
14/12/2000
Chiếc kính
thiên văn đã tìm ra hàng trăm nguồn phát tia X trong vũ trụ. Đồng
thời, XMM-Newton cũng góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề - vật chất
được xây dựng như thế nào, chuyện gì đang xảy ra trong vũ trụ… ở
những nơi kính thiên văn bình thường không thể quan sát được.
Tuần qua, các nhà nghiên cứu đã
họp tại Paris để thu nhận các phát hiện đầu tiên của kính thiên văn
XMM-Newton. Đa số hình ảnh cùng số liệu thô vẫn cần phải được phân
tích, song theo các nhà khoa học, đã định hình dần một số mô hình cụ
thể. Giới khoa học vui mừng vì kính thiên văn XMM-Newton có khả năng
cung cấp những hình ảnh bên trong lỗ đen, các vì sao và cấu trúc của
những vật thể nằm đâu đó trong các thiên hà mà kính thiên văn thông
thường gần như không thể quan sát được.
Một trong những nhiệm vụ của XMM là khám phá bí ẩn của các nguồn
phát ra tia X. Các nhà khoa học cho biết hiện nay công việc đang
tiến triển tốt. Họ đã xác định được rằng 80-90% tia X khuyếch tán
trong vũ trụ phát ra từ những nguồn mà XMM-Newton phát hiện. Mặt
khác, XMM cũng tìm ra hơn 200 vật thể chiếu tia X, tại một vùng
không gian có tên Lỗ Lockman. (Lỗ Lockman là nơi giới khoa học có
thể quan sát được vũ trụ như khi mới hình thành, do ở đó có tương
đối ít khí can thiệp, bụi và sao, những thứ có thể “can thiệp” làm
hình ảnh tối đen không quan sát được). Hiện tại XMM đang bắt đầu
cung cấp hàng loạt hình ảnh và số liệu về N132D, xác của một siêu
tân tinh. Siêu tân tinh này đã bùng nổ và bốc cháy, nay chỉ còn lại
cái xác trôi nổi trong vũ trụ. Hình ảnh thu được qua XMM cho thấy có
9 nguyên tố khác nhau trong N132D, gồm cả ôxy và sắt. Với những quan
sát này, giới khoa học hi vọng sẽ nắm được kích thước, khối lượng và
loại sao đã nổ, cũng như các hiện tượng xảy ra sau vụ nổ.
Ngoài ra XMM-Newton cũng bộc lộ
khả năng to lớn trong việc hé mở bí mật về cấu trúc vật chất giữa
các vì sao, trên cơ sở lưu lại hình ảnh xác các siêu tân tinh. Theo
nhà khoa học Johan Bleeker thuộc nhóm nghiên cứu không gian Hà Lan
thì : “Chính những vật chất này đã đóng góp vào sự hình thành các hệ
mặt trời và hành tinh mới”.
Đài quan sát nơi đặt XMM cũng đang
tiến hành nghiên cứu môi trường khí hàng triệu độ C giữa các thiên
hà nằm trong chùm thiên hà. Những nghiên cứu chi tiết có được là nhờ
XMM. Đó là một trong những thành công lớn của chiếc kính thiên văn
này.
Theo News.Yahoo, 14/12
20-
Chụp được tia vũ trụ cách đây 14 tỷ năm
|
|
Đây là những tín hiệu sớm nhất sau vụ nổ Big Bang
mà loài người từng quan sát được qua kính thiên văn ở cực Nam. Chúng
góp phần củng cố giả thuyết về vụ nổ lớn và mô hình lý thuyết về vật
lý thiên văn hiện nay
Các nhà khoa học quốc tế đã cần tổng cộng 5.500
giờ để thu thập được các tín hiệu này. |
Đài thiên văn ở cực Nam đang quan sát tia vũ trụ |
|
|
Đó chính là các sóng radio nguyên thủy lan truyền trong
không gian: Chúng xuất hiện sau vụ nổ Big Bang chỉ khoảng 400.000
năm. Lần gần đây nhất người ta chụp được sóng radio nguyên thủy là
tháng 5 vừa qua, tại đài thiên văn Atacama, Chile
Tia vũ trụ nguyên thủy (CMB) được các nhà thiên
văn phát hiện lần đầu tiên vào năm 1965. Việc phân tích cấu trúc của
chúng theo trình tự thời gian giúp ta giải đáp được lịch sử vũ trụ.
Tuy nhiên, người ta rất khó quan sát các tia này vì cường độ của
chúng rất yếu
Minh Hy (theo BBC, dpa
- 21/9/2002)
21- Tìm
thấy chuẩn tinh từ thời “trung cổ” của vũ trụ
|
|
300.000 năm sau Big Bang, các phản ứng hóa học đã
tạo ra những đám mây hydro đen đặc che kín toàn vũ trụ và “đêm
trường trung cổ” bắt đầu. Khoảng 1 triệu năm sau Big Bang, mây tan
đi và ánh sáng xuất hiện... Nay, lần đầu tiên, người ta đã tìm ra 30
chuẩn tinh trong số các thiên thể đầu tiên ló rạng đó |
Ba mũi tên chỉ 3 chuẩn tinh ở rất xa, từ cuối
thời kỳ "đêm trường trung cổ" của vũ trụ |
|
Chuẩn tinh là những khối vật chất cực sáng, mà
người ta tin rằng chúng thu được năng lượng từ các hố đen siêu nặng
tại tâm của mình |
Sử dụng đài thiên văn vũ trụ Hubble, các nhà
nghiên cứu tại Đại học bang Arizona ở Phoenix (Mỹ), mới đây đã chụp
được ảnh của khoảng 30 chuẩn tinh già nhất từng được phát hiện tới
nay. Chúng nằm cách trái đất khoảng 13 tỷ năm ánh sáng
“Với Hubble, giờ đây chúng tôi có
thể lội ngược dòng thời gian, trở về thời kỳ mà một số lớn ngôi sao
bắt đầu tỏa sáng, chấm dứt đêm trường trung cổ của vũ trụ
cách đây khoảng 13 tỷ năm”, Haojing Yan, Đại học bang Arizona, cho
biết.
Cùng lúc đó, một nhóm nghiên cứu
khác tại Đại học Arizona ở Tucson, Mỹ, do Xiaohui Fan dẫn đầu, sử
dụng hệ thống khảo sát bầu trời Sloan Digital, cũng đã phát hiện
được một chuẩn tinh xa nhất từ trước đến nay. Chuẩn tinh này có độ
dịch quang phổ về phía đỏ là 6,4, vượt xa so với kỷ lục cũ là 6,28
(độ dịch quang phổ về phía đỏ càng lớn, thì chuẩn tinh càng ở xa
trái đất).
Giải thích về lịch sử của những
chuẩn tinh này, các nhà nghiên cứu phỏng đoán: Vào khoảng 300.000
năm sau vụ nổ Big Bang, vũ trụ đã đủ lạnh để các proton và electron
kết hợp với nhau, tạo thành những nguyên tử hydro. Khi hydro tích
lũy với số lượng đủ lớn, chúng kết tụ thành mây, ngăn cản đường đi
của ánh sáng, khiến vũ trụ rơi vào một thời kỳ tăm tối, còn được gọi
là “đêm trường trung cổ”. Nhưng, khi số ngôi sao mới được hình thành
tăng lên, các tia cực tím mà chúng giải phóng sẽ lại ion hóa những
đám mây nguyên tử hydro, chuyển chúng trở về thành các proton và
electron, cho phép ánh sáng xuyên qua. Khoảng 30 chuẩn tinh mới tìm
được chính là một số trong những vật thể đầu tiên xuất hiện ở ngày
tàn của “đêm trường trung cổ” đó. Ấy là thời điểm khoảng một triệu
năm sau vụ nổ Big Bang.
Patrick Leahy, tại đài quan sát
Jodrell Bank của Anh cho biết, hiện vẫn chưa rõ liệu chuẩn tinh hay
là các thiên hà bình thường đã gây nên quá trình tái ion hóa này.
Hai nghiên cứu trên cùng được công bố tại cuộc họp của hiệp hội
thiên văn Mỹ vừa diễn ra ở Seattle.
B.H. (theo
NewSci)
22- 40 năm thuyết Big
Bang về sự tạo thành và giãn nở của vũ trụ
Georges Lemaître
(1894-1966) |
Giãn nở đầu tiên Ngưng Giãn nở
lần thứ hai |
Vũ trụ "do dự" của Lemaître |
|
Năm 1925, Georges Lemaître, một
nhà vật lý Bỉ, đã phát hiện ra rằng thuyết tương đối tổng quát của
Albert Einstein
dẫn đến hệ quả: Vũ trụ không phải là tĩnh, mà đang
giãn nở, hoặc nói cho đúng, đang nằm trong quá trình giãn nở một
cách không đổi. Một tà thuyết của dị giáo?
Chính Einstein cũng thấy được sự giãn nở đó qua các phương trình, và
điều đó lúc đầu cũng làm ông ngạc nhiên. Nhà thiên văn
Edwin Hubble
(ngày nay tên ông được đặt cho tên kính viễn vọng lớn nhất thế giới)
đã bỏ nhiều công sức nghiên cứu hiện tượng này.
Năm 1929, ông công bố định luật mô tả sự biến mất
của những thiên hà mà ông quan sát qua kính viễn vọng. Định luật
Hubble là định luật đầu tiên khẳng định trực tiếp sự giãn nở của vũ
trụ mà Lemaitre đã nói từ trước. Nhưng không phải tất cả mọi người
đều đồng tình với nhận xét đó.
|
|
Vũ trụ có lẽ được tạo ra từ rất lâu, từ một vụ nổ
của một nguyên tử tiên khởi rất cô đặc. Nhà vật lý
Fred Hoyle, một
người nổi tiếng là hay nghi ngờ, đã sáng tác ra thuật ngữ big-bang
để giễu cợt ý tưởng về “vụ nổ tiên khởi”. Nửa thế kỷ sau, tuy Hoyle
cũng chưa đồng tình lắm về ý tưởng đó, nhưng thuật ngữ “big bang” do
ông đề xuất đã phổ biến |
Bigbang |
|
|
Vào cuối những năm 40, Georges Gamow hiểu rằng
chính trong quả cầu lửa tiên khởi mà những nguyên tố hóa học đầu
tiên được tạo ra: deuterium, helium và lithium… Nhưng ông cũng nói
trước: từ sức nóng tiên khởi đặc biệt đó, phải xuất hiện một cái gì
khác nữa! Tình cờ năm 1964, với những ăngten bắt sóng những buổi
phát của Telstar, vệ tinh đầu tiên của viễn thông, hai nhà khoa học
của phòng thí nghiệm Bell phát hiện một âm nhiễu nguồn gốc không rõ
từ đâu. Arn Penzias và Robert Wilson trong năm 1965 đã công bố những
kết quả kỳ lạ, và người ta hiểu ngay rằng đó là bức xạ gốc mà Garmow
đã nói từ trước. Lemaitre gọi bức xạ gốc đó là “tia sáng đã mất từ
nguồn gốc của thế giới”.
Sự phát hiện ra bức xạ đó là một lợi thế rõ ràng của thuyết
Einstein. Về sau, năm 1990, vệ tinh của Mỹ COBE đánh giá nhiệt độ
của bức xạ đó khuếch tán ở nhiệt độ không đổi là 2,7 độ K trong khắp
bầu trời. Nhiệt độ của bức xạ chênh nhau với một sự dao động rất nhỏ
(trong khoảng 30 phần nghìn độ). Những sự dao động đó cho biết tính
không đồng nhất của tỷ trọng, và đó là nguồn gốc của những cấu trúc
lớn của vũ trụ, như là những quần thể thiên hà. Những nhận xét đó
phù hợp với tiên đoán của lý thuyết với độ chính xác tuyệt vời
"Nếu không có thuyết Big-Bang thì sự tồn tại của
bức xạ gốc và sự tổng hợp những nguyên tố hóa học nhẹ là những bí ẩn
không thể giải thích nổi”, James Peebles đã nói như vậy. Hơn nữa, vẻ
sáng màu đỏ của những thiên hà là kết quả tự nhiên của sự giãn nở vũ
trụ. “Có một số sự kiện được xác nhận một cách chắc chắn, không có
một chút nghi ngờ. Các ý tưởng mới, ít hay nhiều xa lạ, được thu hút
xung quanh các ý tưởng đó. Một số ý tưởng nào đó được chấp nhận một
cách tình cờ, vì chúng giải đáp được một hay nhiều bài toán hiện hữu
của thuyết Big-Bang”, James Peeble lý giải như vậy về ý tưởng
“big-bang”.
Ngày nay thuật ngữ Big-Bang được dùng để chỉ
những hiện tượng thiên nhiên cũng như xã hội bùng lên bất ngờ, dữ
dội, đánh dấu sự bắt đầu một quá trình chuyển động của thực thể vật
chất hay tinh thần Kiến thức Ngày nay
(theo Science Québec) vnExpress |