|
Câu 800 - 999.
Thỉnh bà Vũ Hậu đều liền
đắn đây
Thỉnh ông Nguyên soái Chinh Tây
Cùng bà Vương mẫu sum vầy một khi
Thỉnh ông Phật tổ A Di
Thập phương chư Phật phù tŕ giúp ông
Lại mời công chúa Ngũ Long
B́nh Nam ngũ hổ hội đồng an dinh
Thỉnh trong thiên tướng, thiên binh
Cùng là tam phủ Động-Đ́nh xích lân
Thỉnh trong khắp hết quỉ thần
Cũng đều xuống chốn dương
trần vui chơi
Cho người ba đạo phù trời
Uống vào khoẽ mạnh như lời chẳng
sai,
Tiểu đồng vâng lĩnh theo lời
Lấy phù trợ lại toan bài thuốc thang
Vào nhà thưa với thầy Ngang
Pháp phù đă đũ thày toan phương nào?
Ngang rằng c̣n bạc trong bao
Thời ngươi khá lấy mà trao cho thày
Đồng rằng: Tôi hăy ở đây
Bệnh kia dầu khá ḿnh này bán đi
Triệu Ngang biết chẳng c̣n chi
Kiếm lời tráo chác đuổi đi
khỏi ṿng
Ở đâu hàng xóm khó ḷng
E khi mưa nắng ai pḥng đỡ che
Đồng rằng: Trong gói vắng hoe
Bởi tin nên mắc, bởi lo nên lầm
Những lo chạy hết một trăm
Một ve khô xép, ruột tằm héo don
Thương thay tiền mất tật c̣n
Bơ vơ đất khách thon von thế này
Thôi thôi gắng gượng khỏi đây
Tôi đi khuyên giáo đỡ ngày gạo rau
Vân Tiên chi xiết nỗi sầu
Tiểu đồng d́u dắt qua cầu Lá Buôn
Đương khi mưa gió luông tuồng
Người buồn lại gặp cảnh buồn
khá thương
Xiết bao ăn tuyết nằm sương
Màn trời chiếu đất dặm trường
lao đao
Dẫu cho tài trí bậc nào
Gặp cơn nguy biến biết sao cho thường
Bơ vơ lạ khách tha hương
Nhân t́nh nào biết ai thương mà nhờ
Tiên rằng: đi đă ngất ngơ
T́m cây cối bụi bờ nghỉ chân
Đồng rằng: Chốc nữa khỏi rừng
T́m nơi quán xá sẽ dừng nghỉ ngơi
Non Tây vừa khuất mặt trời
Tớ thày d́u dắt tới nơi Đại đề
Trường thi một lũ vừa về
Trịnh Hâm xem lại thấy kề hỏi thăm
Anh về nay đă hai rằm
Cớ sao mang bệnh c̣n nằm nơi đây
Tiên rằng:Tôi vốn chẳng may
Chẳng hay chư hữu khoa này thể nao?
Hâm rằng: Tử Trực đỗ cao
Tôi cùng Bùi Kiệm đều vào cử nhân
Một tôi về trước viếng thân
Hai người trở việc có lần đi
sau
Đương cơn hoạn nạn gặp nhau
Người lành nỡ bỏ người đau sao
đành
Từ đây tới quận Đông thành
Trong ḿnh có bệnh bộ hành sao xong
Lần hồi đến chốn giang trung
T́m thuyền ta sẽ tháp tùng với nhau
Tiên rằng: T́nh trước ngăi sau
Có thương xin khá giúp nhau phen này
Hâm rằng: Anh tạm ngồi đây
Tiểu đồng ngươi tới trước
này cùng ta
Vào rừng kiếm thuốc ngoại khoa
Pḥng khi sóng biển phong ba bất kỳ
Tiểu đồng vội vă ra đi
Muốn cho đặng việc quản ǵ lao đao
Trịnh Hâm trong dạ gươm đao
Bắt người đồng tử trói vào
gốc cây
Trước cho hùm cọp ăn mày
Hại Tiên phải dụng mưu này mới xong
Vân Tiên ngồi những đợi trông
Trịnh Hâm về nói tiểu đồng cọp
ăn
Vân Tiên than khóc nằm lăn
Có đâu điạ hăm thiên băng th́nh ĺnh
Bấy lâu đất khách lưu linh
Một thày một tớ lộ tŕnh nuôi nhau
Này đà hai ngă phân nhau
C̣n ai nâng trước, đỡ sau cho ḿnh
Hâm rằng: Anh chớ ngại t́nh
Tôi xin đưa tới Đông thành thời thôi
Vân Tiên chi xiết lụy rơi
Buồm đà theo gió chạy xuôi một bề
Tiểu đồng bị trói khôn về
Kêu la chẳng thấu bốn bề rừng hoang
Phần ḿnh c̣n mất chi màng
Cám thương họ Lục suối vàng bơ
vơ
Xiết bao nhưng nỗi vật vờ
Đ̣ giang nào biết, bụi bờ nào hay
Vân Tiên hồn có linh rày
Đem tôi theo với đỡ chân tay cùng
Vái rồi lụy nhỏ ṛng ṛng
Đêm khuya ngồi dựa cội ṭng ngủ quên
Sơn quân ghé lại một bên
Cắn dây mở trói cơng lên ra đàng
Tiểu đồng thức dậy mơ màng
Xem qua dấu vết ràng ràng mới hay
Nửa mừng nửa lại sợ thay
Chạy ra chốn cũ kiếm thầy Vân Tiên
Mặt trời vừa khỏi mái hiên
Người buôn kẻ bán chợ phiên rộn ràng
Hỏi thăm bà quán giữa đàng
Bữa qua có mấy người tang chăng là?
Quán rằng: Thôi đă ra ma
Khi mai xóm làng người đà đi chôn
Tiểu đồng nghe nói kinh hồn
Hỏi rằng biết chỗ nào chôn chỉ
chừng
Tay lau nước mắt rưng rưng
Xẩy nghe tiếng nói đầu rừng lao xao
Tiểu đồng vội vă bước vào
Xóm làng mới hỏi: Thằng nào tới đây?
Đồng rằng tớ tới kiếm thầy
Chẳng hay người thác mả này là ai?
Người rằng: Một gă con trai
Ở đâu khôn biết, lạc loài tới đây
Chân tay, mặt mũi tốt thay
Đau chi nên nỗi nước này khá thương.
Tiểu đồng chẳng kịp hỏi han
Nằm lăn bên mả khóc than một hồi
Người người xem thấy thương ôi
Kêu nhau vác cuốc đều lui ra đàng
Tiểu đồng nằm giữa rừng hoang
Che cḥi giữ mả ḷng toan trọn bề
Một ḿnh ở đất Đại Đề
Sớm đi khuyên giáo, tối về quảy
đơm
Dốc ḷng trả nợ áo cơm
Sống mà trọn nghĩa, thác thơm danh hiền
Thứ này đến thứ Vân Tiên
Năm canh ngồi dựa be thuyền thở than
Trong khăn lụy nhỏ be thuyền thở
than
Cám thương phận tớ mắc nàn khi không
Lênh đênh thuyền giữa biển Đông
Riêng than một tấm cô bồng ngẩn ngơ
Đêm khuya lặng lẽ như tờ
Nghênh ngang sao mọc, mịt mờ sương bay
Trịnh Hâm khi ấy ra tay
Vân Tiên bị ngă xô ngay xuống vời
Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời
Cho người thức dậy lấy lời phôi
pha
Trong thuyền ai nấy kêu la
Đều thương họ Lục, xót xa tấm ḷng
Vân Tiên ḿnh lụy giữa ḍng
Giao long d́u đỡ vào trong băi rầy
Vừa may trời đă sáng ngày
Ông chài xem thấy vớt ngay lên bờ
Hối con vầy lửa một giờ
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày
Vân Tiên vừa ấm chân tay
Nǵn ngơ hồn phách như say mới rồi
Ngỡ là ḿnh phải nước trôi
Hay đâu c̣n hăy đặng ngồi dương
gian
Ngư ông khi ấy hỏi han
Vân Tiên thưa hết mọi đàng gần xa
Ngư rằng: Người ở cùng ta
Hôm mai hẩm hút một nhà cho vui
Tiên rằng: Ông lấy chi nuôi
Thân tôi như thể trái mùi trên cây
May mà trôi nổi đến đây
Không chi báo đáp, ḿnh này trơ trơ
Ngư rằng: Ḷng lăo chẳng mơ
Dốc ḷng nhân nghĩa, há chờ trả ơn
Nước trong rửa ruột sạch trơn
Một câu danh lợi chi sờn ḷng đây
Rày doi mai vịnh vui vầy
Ngày kia hứng gió, đêm này chơi trăng
Một ḿnh thong thả làm ăn
Khoẻ quơ chài kéo, mệt quăng câu dầm
Nghêu ngao nay chích mai dầm
Một bầu trời đất vui thầm ai hay
Kinh luân đă sẵn trong tay
Thung dung dưới thế, vui say trong trời
Thuyền nan một chiếc ở đời
Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang
Tiên rằng: Vậy cũng một làng
Vơ công người ở gần đàng đây chăng?
Ngư rằng: Nhà ở cũng gần
Khỏi ba khúc vịnh thời lần đến nơi
Tiên rằng: Xưa đă gá lời
Sui gia bao nỡ đổi dời chẳng thương
Vợ chồng là đạo tào khương
Chi bằng tới đó t́m phương gửi ḿnh
Trăm năm muốn trọn ân t́nh
Đương khi hoạn nạn ai đành bỏ nhau
Chút nhờ cứu tử ơn sâu
Xin đưa tới đó trước sau cho tṛn.
Ngư rằng: Làm đạo rạ con
Cũng như sợi chỉ mà ḷn trôn kim
Sợ bay mà mỏi cánh chim
Bơ vơ cảnh lạ khôn t́m cây xua
E khi chậm bước tới trưa
Chớ tin sông cũ bến xưa mà lầm
Mấy ai ở đặng hảo tâm
Nắng đun chóp nón mưa dầm áo tơi
Mấy ai hay nghĩ sự đời
Chú thích:
1.Vũ Hậu: Vũ Chiếu, vợ Đường
Cao Tông, Cao Tông chết, con là Trung Tông lên kế
ngôi, được mấy tháng, bà phế con
tự lập làm vua, đổi hiệu nhà Đường
là nhà Chu. Sau bọn Trương Giản Chi phù Trung
Tông phục lại ngôi vua, tôn hiệu bà là
Tắc Thiên đại thánh hoàng đế, người
sau nhân gọi là Vũ Tắc Thiên.
2.Nguyên soái Chinh Tây: theo chính sử, Tiết
Nhân Quí, một tướng tài đời Đường
Thái Tông, thường đánh Đông dẹp Tây, phá
được các nước Cao-Ly, Khiết-Đan,
Đột-khuyết. Người sau đă nhân sự
tích náy diễn thành tiểu thuyết Chinh Đông
chinh Tây.
3.Vương mẫu: tức Tây Vương
mẫu, cũng là gọi là Kim mẫu, một bà
tiên lănh đạo tất cả các nữ tiên,
ở cơi Dao tŕ (nơi Vương mẫu ở có
ao ngọc gọi là Dao tŕ), thường có
nhiều chuyện giao thiệp với trần gian.
4.A Di: tức A Di Đà, tên hiệu vị
Phật tổ chí tôn ở thế giới cực
lạc phương Tây. Di Đà nguyên là một
quốc vương xuất gia, sau khi măn quả
thành phật, do công đức tu hành, Di Đà đă
tạo được một cơi quảng đại
trang nghiêm, trong đó chỉ có vui sướng
không có khổ sở, gọi là thế giới
cực lạc, những chúng sinh ở thập phương,
người nào nhất tâm niệm phật, tu
phật, đều được Di Đà tiếp
dẫn về thế giới ấy.
5. Công chúa Ngũ Long: tức Thành Long, Hắc
Long, Bạch Long, Xích Long, Hoàng Long, năm vị
công chúa (năm con gái Long vương) trong
truyện "Thuyết Đường", năm
vị này tu tiên ở núi Ngũ-long, có nhiều
phép lạ, từng bày ngũ trận "Ngũ
hành" giúp nước Tây phiên đánh nhau
với quân nhà Đường.
6.B́nh Nam ngũ hổ: năm tướng
mạnh như hổ đi đánh phương Nam
trong tiểu thuyết "Ngũ Hổ B́nh Nam".
An dinh: đóng yên dinh trại, nói đến tụ
họp nơi bàn dinh
7.Tam phủ: Thiên phủ, Địa phủ,
Thủy phủ.
8.Động Đ́nh: tên một cái hồ lớn
đẹp có tiếng ở tỉnh Hồ-Nam
Trung-Quốc. Xích lân: không rơ tác giả tác giả
dùng điển ǵ. Xích lân: nguyên nghĩa là
vẩy đỏ, có lẽ chỉ thần
"rồng" hay "cá" có vẩy đỏ,
một vị thủy thần ở Động-Đ́nh,
mà phải thỉnh vị thần ǵ ở hồ
ấy.
9.Dương trần: cơi dương bụi
bặm, tức cơi đời.
10.Pháp phù:phép và bùa để chữa
bệnh
11.Tráo chác: trở tráo, đổi chác,
tức là lừa dối, trở mặt.
12.Vắng hoe: ở đây là cạn hết
tiền.
13.Khuyên giáo: đi quyên tiền, đi xin.
14.Cầu Lá buôn: buôn (có chỗ viết là
buôm) là một thứ cây gồi, cây cọ ở
miền Nam, lá dùng làm nón và áo tơi. Trung-quốc
th́ không có địa danh Lá Buôn, nhưng ở
tỉnh Biên Ḥa, có cái rạch (sông nhỏ) gọi
là rạch Lá Buôn, trên có một các cầu gọi
là cầu Lá Buôn, đường quan lộ từ
Huế vào Gia Định đi qua cái cầu này. (Theo
Gia định Thống chí của Trịnh Hoài
Đức).
15.Hai rằm: hai tháng.
16.Chư hữu: các bạn
17.Viếng thân: thăm cha mẹ.
18.Trở việc: bận việc
19.Giang trung: giữa sông tức là nơi có
sóng nước, nơi bến đ̣.
20.Tháp tùng: chữ "tháp" chính âm là
"đáp", nói đáp thuyền mà đi cùng.
Tiếng này rất phổ biến ở Nam bộ.
21.Trong dạ gươm đao: do câu chữ
Hán "Phúc trung hữu kiếm": trong bụng
có gươm, nói tâm địa bất nhân,
hiểm ác.
22.Địa hăm thiên băng: đất sụp
trời sụp. Tai biến rất lớn.
23.Lưu linh: trôi nổi lạc loài, nay đây
mai đó.
24.Suồi vàng: do chữ Hán "hoàng
tuyền" , tức cơi chết. Đây nói tiểu
đồng nghĩ thương cho Vân Tiên không ai
d́u dắt nuôi nấng chắc đă chết
rồi.
25.Đ̣ giang nào biết, bụi bờ nào hay:
nói hồn Vân Tiên - cái hồn mù mắt - vật
vờ không biết lối mà đi .
26.Cội ṭng: gốc cây thông
27.Sơn quân: vua núi, tức là cọp.
28.Ràng ràng: rơ ràng.
29.Người tang: người mặc quần
áo tang, chỉ Vân Tiên.
30.Quảy đơm: cúng lễ
31.Be thuyền: mạn thuyền
32.Mắc nàn khi không: bỗng dưng mắc
nạn
33.Cô bồng: cô: lẻ loi, bồng: mui
thuyền. Nói chiếc thuyền lẻ loi một
ḿnh.
34.Vời: khoảng nước rộng.
35.Phôi pha: chữ phôi pha dùng ở câu này có
nghĩa: làm cho nhẹ chuyện đi, che lấp
việc đi.
36.Giao long: con rồng nước, rồng
bể, có tính hung tơn hay gây sóng gió. Vân Tiên và
tiểu đồng đều là người
rất tốt, nên giao long hay sơn quân cũng
cảm thông mà đến cứu giúp. Sông
Cửu-long có nhiều cá sấu, cũng gọi là
giao long.
37.Băi rầy: băi này.
38.Hối: giục vội. Vầy lửa như
nghĩa nhóm lửa
39.Nước trôi: nói chết bị nước
cuốn đi.
40.Hẩm hút: hẩm: hư hỏng, biến
chất (gạo hẩm, đường hẩm).
Hút: (tiếng miền Nam, nói về gạo) không
trắng, không ngon. Danh từ hẩm hút dùng để
chỉ thứ gạo xấu, thức ăn người
nghèo, cũng như nói rau cháo. Câu này nói: tuy nhà
nghèo, nhưng thây mật vui vẽ .
41.Trái mùi: trái chím lắm. Vân Tiên nói: trái
cây chín mùi, tất phải rụng, cũng như
thân ḿnh, bệnh hoạn ốm yắu nhiều,
tất phải chết, sẽ phụ cả công
ơn của ngư ông .
42.Doi: dải đất tḥi ra ngoài bể,
ngoài sông (doi bể, doi sông).
43.Chích: cái hồ, cái đầm.
44.Kinh luân: ông ngư nói: ông có tài chài lưới,
cũng chẳng kém ǵ người trị nước
có tài kinh luân .
45.Dưới thế: dưới đời
46.Tắm mưa chải gió: tắm ḿnh
bằng mưa, chải đầu bằng gió. Do
câu chữ Hán "Trất phong mộc vũ" :
chải gió gội mưa, chỉ sự cần lao
dầu dăi ở ngoài trời.
47.Gá lời: như nói hứa lời.
48.Sui gia: thân gia, dâu gia, hai nhà gả con cho
nhau.
49.Cứu tử: cứu cho khỏi chết.
50.Sợi chỉ ḷn trôn kim: ḷn tức là
luồn. nói: sợi chỉ phải vừa với
trôn kim, cũng như con rạ phải hợp
với nhà vợ. Ông ngư sợ rằng: ngày nay
Vân Tiên đă tang tóc sa sút lại đeo tật
bệnh, chắc sẽ bị nhà vợ ruồng
rẫy mà không nhận nữa .
51.Nắng đun: đun: nung đốt,
nắng đun cũng như nói nắng nung. Chóp
nón: hai chữ này có lẽ là "nón chóp" chép
lộn đi. ở dưới đặt chữ
"áo tơi", th́ đây phải đặt
chữ "nón chóp", văn mới sóng nhau,
vậy nên đổi làm "nón chóp" cho
được đúng nghĩa, đúng văn. Nón
chóp là thứ nón lá h́nh chóp, h́nh chum chúp.
|