Ông
đã viết truyện ngắn như thế nào
?
Câu hỏi có thể hiểu theo
hai cách :
a) Vào trường
hợp nào ông viết truyện ngắn ?
b) Hãy nói phương pháp viết
truyện ngắn của ông.
a) Hồi học tiểu học, tôi
không có năng khiếu đặc biệt gì
về Việt văn hết. Hồi đó Pháp văn
được coi là tiếng mẹ đẻ,
được dùng làm chuyển ngữ, chúng tôi
phải làm luận bằng Pháp văn hồi
mới lên lớp nhì. Nhưng tôi có cái duyên may là
được đọc tuần san Tiểu
Thuyết Thứ Bảy và Ích Hữu do môi
giới người chị một anh bạn tôi.
Lên trung học, giáo sư dạy Luận quốc
văn một hôm có ban cho tôi một lời khen
sau khi chấm bài luận : "Tôi nhận
thấy có vài đóa hoa trong bài của anh".
Tôi không sung sướng nhiều lắm bởi vài
đóa hoa vu vơ nào đó, trong khi các bạn tôi
lại tỏ ra vui vẻ một cách hăng hái
thay tôi. Họ bày làm thủ báo (báo viết tay) và
bắt tôi phải góp bài. Bài viết xong, một
bản tôi đưa đăng trên báo nhà,
một bản tôi gởi ra tòa soạn Tiểu
Thuyết Thứ Bảy ở phố Hàng Bông Hà
Nội : Tòa soạn chẳng thư từ liên
lạc gì với tôi hết, nhưng chừng
một tháng sau tôi bỗng thấy bài đó
được đăng. Ðầu đề
của truyện là Mùa gặt. Dưới bút
hiệu là Ngân sơn (Ngân Sơn là tên
làng của tôi. Năm đó tôi học troisième
année (tương đương với lớp Tám
thời nay). Buổi chiều thấy bài mình và tên
mình được đăng trên báo, tối
đó tôi đi lang thang khắp các phố, đi
đến mỏi chân. Sướng quá hóa
dại. Ngồi trong nhà chịu không được.
Mà đi thì rốt cuộc cũng chẳng làm
biết làm gì. Ðó, tôi bắt đầu làm quen
với thế giới truyện ngắn một cách
khá ngớ ngẩn như vậy.
b) Thường, một truyện
ngắn được khởi đầu bởi
một hoàn cảnh nào đó : một sự
việc xảy ra, một cảm xúc chợt đến...
Người cầm bút xây dựng thêm nhân
vật, tạo thêm tình tiết để câu
chyện diễn biến hợp lý, tạo ra
một cái gút và tìm cách để mở cái gút
đó cho tự nhiên. Cái khó nhất là tìm cách
mở gút (dénouement). Thiếu nó thì câu chuyện
mất đi phần hấp dẫn, không thỏa
mãn người đọc. Phương thức
viết truyện ngắn cổ điển là
vậy. Có truyện tôi viết ra được
đến hai phần ba rồi bỏ đó vì không
tìm ra một cái mở gút nào cho tự nhiên. Tôi
bỏ mặc đó hai hay ba tháng, một hay hai năm.
Rồi bỗng vào một lúc bất ngờ có
một việc chi xảy đến mình chợt
thấy rằng nếu đem sự việc đó
ghép vào câu chuyện dở dang kia có được
đoạn kết. Ví dụ truyện Trả thù.
Tôi viết nó vì một hôm thấy cái đam mê
bủn xỉn của một người đàn
ông ngồi két thay vợ, chậm rãi chọn
những giấy bạc bẩn và rách để
thối lại cho khách hàng. Nhưng viết đến
đó rồi thì sáng kiến kẹt cứng.
Mở gút như thế nào ? Tôi đành bỏ
mặc đó. Ba năm sau nhân dịp đi
chấm thi ở Quảng Ngãi tôi gặp một cô
giáo sư cùng giám thị một phòng với tôi.
Khuôn mặt đó, giọng nói đó, màu áo
đó và cái hoàn cảnh mà cô tâm sự cho tôi
nghe đã giúp tôi tìm đoạn kết cho câu
truyện bỏ dở dang ba năm trước.
Truyện Rồi cây trái sẽ chín cũng
đòi hỏi một thời gian dài từ lúc
bắt đầu cho đến khi kết thúc.
Thời gian không dưới bốn năm. Tôi không
bao giờ vội vàng khi viết văn. Những
đoạn quan trọng của truyện, nơi
tập trung kịch tính, tôi viết đi sửa
lại nhiều lần. Làm sao cho sự kiện
được diễn ra thật rõ, thật linh
động tự nhiên. Chúng quan trọng như
những khớp xương cần cho bộ xương
hoạt động nhẹ nhàng, dễ dàng.
Viết truyện ngắn khó hơn
hay viết truyện dài khó hơn. Nếu khó, như
thế nào ? Nếu dễ, như thế nào ?
Mỗi lối có cái khó riêng
của nó, nhưng đem so với nhau thì một
truyện dài viết hay phải khó hơn một
truyện ngắn viết hay. Bởi lẽ dễ
hiểu là truyện dài đã dài gấp 10
lần, gấp 20 lần thì người viết
phải gặp khó ít nhất cũng đến 10
hay 15 lần. Cố nhiên là đây không nói đến
trường hợp một truyện ngắn
viết hay so với một truyện dài nhảm
nhí. Một truyện dài có thể được
ví với một thân cây rườm rà và một
truyện ngắn là một cành được
nhọn. Ðược chọn vì cành đó có cái
dáng đẹp hay và có nhiều nụ hoa đẹp
ở đây được ngưng tụ lại
trong một diện tích nhỏ. Một truyện
ngắn hay, ít nhất cũng có thể xem như
một bức tranh có giá trị. Người
họa sĩ sẽ chọn một góc của
cảnh (tĩnh cảnh hay hoạt cảnh)
một nét của người thể hiện nó
ra bằng màu sắc. Người xem tranh xúc
cảm, suy nghĩ, và bắt tư tưởng
của họa sĩ. Họa sĩ đâu cần
phải vẽ cả "một truyện dài
bằng tranh". Huống chi so với một
bức tranh vẽ thì truyện ngắn có khả
năng đạo đạt tình cảm và tư
tưởng đến người đọc hơn
nhiều. Nhưng nói như vậy không phải chúng
ta hạ thấp giá trị của truyện dài.
Trái lại, truyện dài bao giờ cũng thể
hiện đầy đủ tư tưởng
của tác giả hơn. Nhưng truyện dài
đòi hỏi công phu xếp đặt lâu hơn,
vần mạch lạc, cần dài hơi... thế
mà cuộc đời rộng lớn phức
tạp cứ đập mạnh, đập
tới tấp vào cảm quan người viết
dưới nhiều vẻ khác nhau, trái ngược
nhau nữa. Người viết thấy cần
phải ghi lấy, cần phải nói lên, trong
những trường hợp này thì thể
truyện ngắn là thể thích hợp nhất
để họ nói ý nghĩ của họ. Không
ai chối cãi là thể truyện ngắn thật
quá ngắn để nói hết tư tưởng.
Nhưng bình tâm mà xét thì biết bao nhiêu mới
hết ? Người viết truyện ngắn có
tài và người viết truyện ngắn thông
minh đều cùng cảm thông với nhau rằng
: truyện ngắn giống như băng sơn
(iceberg), phần nổi trên bể của một băng
sơn thường chỉ là một phần mười
của toàn khối. Chín phần mười
giấu ở dưới mặt nước.
Thấy một phần mười mà biết
được cả mười phần, đọc
truyện ngắn như vậy không thú sao ?
Theo ông, những nhà văn Việt
Nam nào viết truyện ngắn hay nhất, xin
kể vài tác giả và tác phẩm của họ.
Thời tiền chiến, trong nhóm
Tự lực văn đoàn có Khái Hưng,
Thạch Lam, trong nhóm Tân Dân có Nguyễn Tuân, Tô
Hoài, Nguyễn Công Hoan. Thời hậu chiến,
số nhà văn đông đảo hơn nên
những người viết truyện ngắn hay
cũng nhiều hơn. Bạn mới tập
viết có thể học cách bố cục tình
tiết một truyện nơi ông Bình Nguyên
Lộc, ông Nguyễn Mạnh Côn, ông Hoàng Hải
Thủy, học cách phân tích tâm lý nơi ông Võ
Phiến, ông Dương Nghiễm Mậu, ông
Nguyễn Ðình Toàn, học cách sử dụng ngôn
ngữ nơi bà Túy Hồng, ông Mai Thảo, ông Sơn
Nam. Ðó là những nhà văn trong danh sách Tuổi
Ngọc đã chọn để phỏng vấn
lần này. Còn nhiều vị viết hay nữa,
mỗi người một vẻ.
Truyện ngắn nào của ông
được ông ưng ý?
Thiệt khó mà nói đích xác mình
ưng ý nhất truyện nào của mình. Bình thường
mỗi truyện mình yêu một cách. Truyện Bên
đập Ðồng Cháy được coi như
có kỹ thuật vững. Truyện Con suối
mùa xuân bâng khuâng dịu dàng như một dòng
suối mát. Truyện Trầm mặc cây
rừng làm tôi nhỏ mắt ngậm ngùi.
Trong một cuốn sách bàn
về nghệ thuật viết văn, ông
Nguyễn Hiến Lê đã viết, đại ý :
truyện dài là nhiều truyện ngắn kết
hợp lại. Ông nghĩ sao ? Và từ câu trên,
ông có chấp nhận định lý đảo :
Truyện ngắn là một phần rút ra từ
truyện dài ?
Tôi chưa đọc cuốn sách
nói trên của ông Nguyễn Hiến Lê nên chưa
thể phê bình quan niệm của ông. Còn nếu
căn cứ theo tóm tắt của Tuổi
Ngọc rằng "... truyện dài là nhiều
truyện ngắn kết hợp lại" thì
tôi không đồng ý. Một truyện dài không
thể là nhiều truyện ngắn kết
hợp lại được. Cái định lý
đảo có thể tạm chấp nhận
được. Nhưng mà phải nói một cách
khác. Ví dụ "có thể rút từ
truyện dài một đoạn để làm
truyện ngắn". Có thể chớ không
phải luôn luôn.
Những người viết
trẻ bây giờ thường thích viết
truyện ngắn, ông có thể nói cho họ nghe
một vài kinh nghiệm của ông ?
Truyện ngắn, gọi
đơn giản như vậy nhưng nó bao
gồm nhiều thể, nhiều trường phái.
Vậy kinh nghiệm của tôi thường
chỉ giúp ích cho tôi thôi hoặc may ra thì có
thể giúp chút ít cho bạn trẻ nào thích
viết loại truyện ngắn như tôi
vẫn thường viết.
a) Lúc mới tập viết,
người viết thường hay chủ quan,
nghĩ rằng câu chuyện của mình kể là
hay lắm trong khi thực tế thì đến 80
phần trăm chuyện kể mang một nội
dung nghèo, nhảm. Nữ sinh đệ nhất
cấp thì ưa đưa ra hai nhân vật là hai
cô bạn thân, rồi mẹ một cô bị
bệnh, rồi cô kia lén ban đêm đến giúp
thuốc men, rồi người mẹ lành
mạnh, rồi hai cô cảm động cầm
tay nhau. Nam sinh đệ Nhị cấp thì thường
đưa ra một nhân vật nam thầm yêu
một cô bạn của mình, rồi họ xa nhau,
rồi họ bâng khuâng gặp lại nhau, vừa
đủ để trao đổi một chút
nghẹn ngào. Tôi nghĩ rằng nội dung câu
chyện nên có một chút hấp dẫn nào đó,
một sự khám phá nào đó (về tâm lý
chẳng hạn).
Những bạn mới viết
chừng như không mấy chú ý mấy đến
việc xây dựng cốt truyện, hoặc là
họ thưởng thức cốt truyện
của họ với nhiều chủ quan. Nhân
vật thường là họ và người
họ yêu. Họ chỉ kể lại chuyện
gặp gỡ, chuyện nhớ nhung và chỉ
bấy nhiêu đó thôi đã đủ đặt
họ vào một không khí êm đềm sương
khói, ấm áp ngọt ngào. Họ quên nghĩ
rằng độc giả là kẻ xa lạ,
lạnh lùng khách quan. Ðộc giả đòi
hỏi tìm biết trong khi người viết
đã thỏa mãn bằng những ý nghĩ và
những kỷ niệm chủ quan của mình
rồi.
b) Về hình thức phô
diễn, - tức hành văn - một số
bạn trẻ có vẻ coi thường, viết
sao cũng được, miễn người
đọc hiểu câu chuyện. Tôi thì không nghĩ
vậy. Tôi thấy các tác giả luôn tìm
những hình ảnh phô diễn mới, những
dụng ngữ mới.
Có lần tôi muốn tả đôi
mắt của nhân vật Annie (truyện Con
suối mùa xuân). Tôi không chịu dùng chữ trong,
chữ sáng, chữ long lanh một cách
đễ dãi. Tôi loay hoay tìm một hình ảnh
lạ, mới để mô tả. Không dễ
đâu. Tôi thay đổi chỗ ngồi, bỏ bàn
viết ra ngồi ở xa lông. Lúc đó cơn mưa
vừa tạnh. Nền trời sáng. Tôi nhìn ra
cửa sổ nơi có hàng cây mãng cầu và cây
mận. Tôi nhìn những giọt nước đọng
ở đuôi lá. Nhìn từ trong cửa sổ,
giọt nước phản chiếu ánh sáng long
lanh. Bất chợt tôi tìm ra được hình
ảnh rồi. Tôi viết : "Annie ! Ðôi
mắt long lanh như hai giọt nước treo
ở đuôi lá na lá mận được nhìn
qua ánh sáng của khung cửa sổ..."
Một mùa hè tôi về Ðà
Lạt nghỉ chơi vài tuần . Ðem khuya
vắng lặng, lắng nghe hạt sương rơi
lộp độp từ mái nhà xuống sân, tôi
chợt liên tưởng đến những
giọt nước mắt, đến đêm
lạnh, đến nỗi cô đơn của tôi.
Và tôi viết : "...Sương từng
giọt từ mái bếp tôn lộp độp rơi
xuống mặt đất. Giọt nước
mắt của Ðêm. Những người buồn
chắc sẽ cô đơn khi Ðêm tối cùng
chung chia giọt nước mắt của họ..."
(Bên kia đường).
Các tác giả đều là
những kẻ khéo tạo ra hình ảnh, khéo pha
chế ngôn từ. Funck Brentano tả một
buổi chiều : "Sương chiều
xuống. Những mảnh kính cửa ở
từng gác cao các ngôi nhà dọc bờ sông và
mặt trời chiều đã đốt cháy,
lần lần tắt từng mảnh một và
giải ánh sáng ở chóp các ngọn tháp nhà
thờ Ðức Bà, cùng lúc càng nhạt và
mỏng, lướt dần vào đêm..."
Muốn có chi tiết độc
đáo thì điều kiện trước tiên là
phải quan sát, quan sát thật kỹ, vì chỉ
quan sát thật kỹ mình mới tìm thấy đặc
điểm của vật mình tả. Ðại văn
hào Flaubert dạy đệ tử của ông
rằng : "Khi anh đi qua trước một
ông chủ tiệm chạp phô đang ngồi ngoài
cửa, qua trước anh gác cổng đang hút
thuốc, qua một bến xe ngựa, anh hãy
tả lại ông ông chủ tiệm, anh gác
cổng đó, hình thù, dáng điệu làm sao cho
tôi khỏi lầm với một ông chủ
tiệm nào khác , một anh gác cổng nào khác. Và
bằng một chữ thôi, anh làm sao cho tôi phân
biệt con ngựa kéo xe mà anh tả để tôi
khỏi lẫn lộn với năm chục con
ngựa đang chạy trước nó hoặc
chạy sau nó."
Có bạn sẽ nói "Tôi chú
trọng nghệ thuật vị nhân sinh chứ không
chấp thuận nghệ thuật vị nghệ
thuật ". Tôi xin thưa "Nhưng trước
hết, bạn có nghệ thuật chưa ? Có
nghệ thuật chưa để mà vị cái
này hay vị cái khác?"
c) Ðối với các bạn nói
giọng miền Nam, có một khó khăn khá
lớn dành cho các bạn mỗi khi các bạn
sắp đặt cho các nhân vật đối
thoại với nhau. Các bạn thường có
khuynh hướng để nhân vật nói
giọng Bắc. Lối đó phổ thông quá mà!
Ca sĩ hát giọng Bắc đã đành
(giọng Bắc phát âm rõ, tương đối
dễ nghe) đến mấy chữ "Xin cám
ơn quí vị. Ðể đáp lại thịnh tình
của quí vị tôi xin..." mà cũng phải
trọ trẹ giọng Bắc. Diễn giả nói
chuyện trọ trẹ giọng Bắc. Ðến
cả các nhân vật trong truyện, một bà già
ở miệt ruộng Sa Ðéc, một anh lính nhà quê
ở Quảng Ngãi Ðồng Sơn mà cũng nhé,
cũng chán quá cũng vâng ạ thì
thật là ngọng nghịu vụng về. Các
bạn nên viết văn đối thoại cho
tự nhiên. Cũng nhớ tránh văn hoa, lai căng
nữa. Tôi nhớ có đọc ở một nơi
nào đó, một bà mẹ nhà quê thấy con gái
trang điểm lộng lẫy liền ôm chầm
lấy con mà khen : "Ồ ! Con của mẹ
đẹp lộng lẫy quá. Ðẹp như
một nàng công chúa vậy.". "Con
của mẹ" chắc được
dịch từ "ma fille". Không biết
bao nhiêu là lỗi trong một câu nói như
vậy.
Khi mô tả, thuật sự ta
phải tránh đường mòn lối cũ
(chẳng hạn nói Xanh như tàu lá, chim hót véo
von, trên vạn nẻo đường đất
nước v.v...) còn khi viết đối
thoại thì phải rập đúng y nguyên lối
nói thông thường, sát đúng với hoàn
cảnh tâm lý, giai cấp và địa phương
của nhân vật đó.
d)- Truyện của bạn
viết xong gởi đi các tòa soạn mà không
được nhận đăng, các bạn cũng
đừng vội buồn, đừng vội
nản lòng. Hãy kiên trì hơn nữa, đọc
thêm các tác giả lớn (cả Việt Nam
lẫn ngoại quốc), tập phân tích tâm lý thêm
tinh vi, tập quan sát cảnh, vật, người
thêm sâu sắc. Thành công quá sớm không phải
là điều đáng mừng vì luôn luôn có
những sơ hở khi mình chưa nhiều kinh
nghiệm. Lời nói bay đi chớ chữ in thì
cứ nằm sờ sờ ra đó. Muốn
chối bỏ không được, muốn
sửa lại cũng không được nữa.
Con người mỗi tuổi mỗi thêm khôn. Ðiều
viết ra hôm nay thấy hay, một năm sau
thấy dở, ba năm sau thấy tệ. Mong các
bạn nhớ cái thực tế đó để
tránh vội vàng.
Một hôm tôi vào dạy một
lớp, thấy học sinh dùng cuốn sách
giảng văn trong đó có trích văn của tôi.
Tôi chợt lo lắng hỏi thầm :
"Chẳng biết bài văn trích của mình có
hay không ? Thực tế có còn hay như hồi mình
mới viết, mình mới quan niệm không ?"
Và tôi lo lắng thật sự. Tôi cho học trò
chép bài học trên bản vào vở, lợi
dụng thì giờ đó tôi mượn một
cuốn Giảng Văn, đi xuống cuối
lớp, lén mở đọc bài văn trích
của tôi. Tôi hồi hộp, tim đập khá
rộn. Mặc dù bài văn đã kinh qua sự
chọn lựa của soạn giả, - mà tôi không
quen, - nghĩa là có sự bảo đảm
về vô tư, mặc dù cuốn sách được
tái bản nhiều lần và mặc dù tôi đã
gián tiếp hay trực tiếp biết rằng bài
văn được nhiều giáo sư đem
giảng ở lớp hoặc đưa cho học
sinh làm bài tập dịch.
|