|
|
|
Vua Duy Tân là một anh hùng cứu quốc của dân
tộc ta. Trong lịch sử đông tây kim cổ
chưa thấy có một vị vua nào trẻ
tuổi, bỗng hy sinh ngai vàng bệ ngọc để
dấn thân vào một cuộc khởi nghĩa
giải phóng đất nước như vua Duy Tân.
Mà cũng ít khi thấy một loạt có ba vị
vua liên tiếp nhau, trong vòng ba chục năm (1885
đến 1916), nổi lên chống đuổi xâm
lăng để nhận lấy cảnh lưu
đày khổ nhục như các vua Hàm Nghi, Thành Thái
và Duy Tân nước ta! |
|
|
|
Thế mà sự nghiệp của các vị vua
nầy, nói chung, của Duy Tân cũng như mối
tình dang dở của nhà vua nói riêng, lại không
được mấy người biết đến.
Có lẽ một phần, cũng vì những tài
liệu liên quan đến "cách mạng"
trong thời ngoại thuộc đều bị tiêu
hủy, không ai dám tàng trử.
Chỉ gần đây Hoàng Trọng Thược,
trong Hồ sơ vua Duy Tân, đã dày công sưu
khảo, đưa ra ánh sáng một giai đoạn
đen tối của nước ta mà các sách
lịch sử chỉ nói phớt qua hoặc không
hề đá động đến. Chúng tôi
hết sức tán thành ý kiến của giáo sư
Nguyễn Xuân Vinh (bút hiệu Toàn Phong) được
dẫn ra trong bài tựa của Hồ sơ vua Duy Tân:
"Lần đầu tiên chúng ta có một hồ
sơ đầy đủ về vua Duy Tân. Phải
quảng bá sự sưu tầm của ông Thược
đến đại chúng".
Bối cảnh lịch sử
Năm 1885, Bắc kỳ bị Pháp đánh
chiếm. Trong triều Huế, các quan chia thành hai
phe: phe chủ hòa có Trần Tiển Thành và
Nguyễn Hữu Độ, phe chủ chiến có Tôn
Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường.
Nguyễn Văn Tường ra mặt ngoại giao
khéo léo với Pháp để Tôn Thất Thuyết
ngầm huy động toàn dân kháng chiến.
Với danh nghĩa phụ chính, Tôn Thất
Thuyết và Nguyễn Văn Tường nắm
hết quyền hành, triệt hạ những người
chủ hòa.
Trước đó, vua Kiến Phúc mất (ngày 7 tháng
4 năm Giáp Thân - 1884), em là Hàm Nghi 12 tuổi
kế ngôi, Khâm sứ Pháp tại Huế là Rheinart
trách cứ triều đình ta sao không xin phép nước
Pháp. Đại tá Guerrier đem 600 quân cùng một
đội pháo binh, từ Bắc vào Huế để
thị uy. Triều đình phải làm lại
lễ tấn phong Hàm Nghi, để Rheinart và
Guerrier đến dự, Pháp mới chịu rút quân
về Hà Nội.
Vì phong trào giải phóng nổi lên khắp nơi,
thống tướng De Courcy vừa sang đến Hà
Nội, liền kéo 1000 quân vào Huế ngày 18 tháng tư
năm Ất Dậu (1885) nói là để hội thương
với ta, có ý nhân dịp nầy bắt Tôn
Thất Thuyết là người đang ngầm
yểm trợ kháng chiến. Thuyết biết
được, cáo ốm không đến dự. De
Courcy bảo ốm cũng phải nằm cáng mà
sang sứ quán Pháp. Qua ngày 22 tháng tư Ất
Dậu (5-7-1885), Pháp mở tiệc khao quân, để
sáng hôm sau vây bộ Binh bắt Thuyết, thì vào 1
giờ đêm hôm ấy, Thuyết ra lệnh
tấn công vào đồn Mang Cá và sứ quán Pháp.
Cuộc tấn công thất bại, Pháp phản công,
quân ta bị thua, Thuyết đưa Hàm Nghi
chạy ra Tân Sở, dựng cờ kháng Pháp,
xuống hịch Cần Vương, văn thân nghĩa
sĩ khắp nơi hưởng ứng nhiệt
liệt.
Ở kinh đô (Huế) Pháp đưa Đồng
Khánh lên ngôi và mãi đến mấy năm sau,
(1888), Pháp mua chuộc được một cận
vệ của Hàm Nghi là Trương Quang Ngọc người
Mường, mới bắt được nhà vua,
đày đi Algérie.
Cũng vào năm 1888, Đồng Khánh mất, Pháp
đưa Thành Thái 10 tuổi, kế vị. Lớn
lên Thành Thái tỏ ý tự lập, và thường
phản đối chính phủ Pháp. Có lần vua
định trốn sang Tàu, nhưng việc bại
lộ, bị bắt lại. Từ đó, vì
bị Pháp kiểm soát chặt chẽ từng hành
động, Thành Thái làm ra vẻ mất trí để
ngụy trang. Năm 1907, biết được Thành
Thái liên lạc với Kỳ Ngoại Hầu Cường
Để ở ngoại quốc, Pháp lấy cớ
nhà vua bị điên, buộc các quan trong triều dâng
biểu yêu cầu vua từ chức. Tất cả
đều đồng ý, trừ Ngô Đình Khả
(thân sinh Ngô Đình Diệm), không chịu ký. Sĩ
phu miền Trung có câu: "Phế vua không
Khả". (1)
Pháp đặt hoàng tử Vĩnh San, con của Thành
Thái, 8 tuổi, lên ngôi, vương hiệu Duy Tân.
Duy Tân thông minh và có chí khí. Năm 1908, ở Trung
Kỳ phong trào Duy Tân dân chúng nổi lên xin xâu,
chống thuế, bị đàn áp dữ dội. Lúc
đó vua mới 9 tuổi, mà đã phán với
đình thần rằng: "Nếu trong nước
hay có loạn là vì nhân dân bị thiếu thốn.
Từ nay sắp tới, lương bổng của
ta 500$ một tháng, ta chỉ lãnh 200$ thôi, giao cho các
thầy 300$ đem giúp đỡ những kẻ nghèo
khó". (2)
Có lần vua hỏi Hồ Đắc Trung, thượng
thư bộ Học: "Thày nghĩ sao về người
Pháp đô hộ ta?". Trung tâu: "Chúng ta
bị trị còn biết nói gì nữa! Xin Hoàng thượng
thận trọng, cố gắng học hành,
đường còn dài, còn nhiều vận hội
mới" (3)
Vào năm 1913, nghe tin Khâm sứ Mahé đem người
đến đào mả vua Tự Đức để
lấy vàng ngọc châu báu, Duy Tân tức tốc thân
hành đến ngăn chận, nhưng tới nơi
thì đã muộn, mọi việc đã xong xuôi. Ngày
sau, Duy Tân viết thư cho chính phủ Pháp
hạch tội và yêu cầu khiển trách những
viên chức đã lộng hành, nhờ Toàn
Quyền Pháp chuyển. Viên Toàn Quyền không
chuyển, mà còn đích thân đem thư ấy vào
cung đưa cho Hoàng thái hậu, mẹ đích
của vua, Bà là con gái Cần chánh đại
học sĩ Nguyễn Thân, tuy không có con, song
vẫn có thế lực lớn trong triều. Bà
đòi vua vào cung, buộc vua xin lỗi viên Toàn
Quền Pháp. Bất đắc dĩ Duy Tân phải
bấm bụng tuân theo. (3)
Đầu năm 1914, Duy Tân họp các vị thượng
thư, chỉ thị cho hai người phải qua
Pháp trình Tổng thống Pháp một dự án
sửa đổi bản hiệp ước Pháp-Nam
Patenôtre đã bị Pháp vi phạm rất
nhiều. Không vị nào dám nhận sứ mạng
nầy. Thượng thư Huỳnh Côn lại
đi mách với Hoàng thái hậu để Bà la
rầy nhà vua một cách gắt gao.
Về sau, trong một buổi học chữ Hán
với thượng thư Huỳnh Côn, Duy Tân phàn
nàn: "Không có ông thượng thư nào chịu
nghe ta cả. Ta làm vua chỉ có hư danh thôi."
Huỳnh Côn tức tốc đi mời Chủ
tịch hội đồng và Thượng thư
bộ Hình đến. Duy Tân lặp lại câu
đã nói đó. Vừa Nguyễn Hữu Bài đi
ngang qua, nghe được, tâu: "Ngài muốn
đánh Pháp, nhưng Ngài lấy gì mà đánh? Ngài
không có tài chánh mà cũng không có quân đội."
Nhà vua làm thinh một chốc, rồi nổi
giận la to lên: "Lúc nầy chính là lúc phải
xúi dân nổi dậy, lúc mà nước Pháp đang
lâm chiến". (4)
Về mối tình dở dang của vua Duy Tân
Sư bà Diệu Không, đã kể lại trong
hồi ký "Vua Duy Tân và gia đình Hồ Đắc
Trung" (chưa xuất bản), đại khái như
sau:
"Năm 1914, vua Duy Tân ra nghỉ mát ở cửa
Tùng (Quảng Trị), thân sinh tôi là Hồ Đắc
Trung theo hầu. Nhà vua lúc đó lối 15 tuổi,
muốn có bạn chơi cùng lứa, nên truyền
thân sinh tôi dẫn thêm anh chị em chúng tôi (hai anh
tôi 15 và 16 tuổi, học sinh trường Albert
Sarraut Hà Nội, chị tôi 13 tuổi, tôi 10
tuổi) cùng đi theo cho vui.
"Mỗi buổi sáng, mặt trời vừa
mọc, vua cho đòi đám trẻ đến để
cùng đi ra biển bơi lội. Thân sinh tôi căn
dặn chúng tôi phải giữ lễ vua tôi, không
được tự do cười nói như đối
với người thường, nhưng nhà vua
lại rất dung dị, gọi các anh tôi bằng
anh, gọi tôi bằng em. Ngài ít nói chuyện
với chị tôi. Mỗi khi vui đùa cùng hai anh tôi
và tôi, ở những trò chơi con nít, vua chỉ
nhìn chị tôi mà không mời chơi. Khi nào Ngài cũng
tỏ ra vui vẻ, song vẫn nghiêm trang. Chúng tôi
rất mến Ngài, nhưng vẫn không dám cười
đùa nhiều, sợ thân sinh chúng tôi quở.
"Tôi còn nhớ một hôm chơi bắt còng (dã
tràng) ở bãi biển. Ai bắt được
nhiều sẽ được thưởng. Ngài
bắt được con nào thì thả con nấy.
Chúng tôi lấy làm lạ. Ngài bảo: "Bắt
chúng lên cạn chúng sẽ chết, chi bằng
thả cho chúng được tự do bơi
lội, ta nhìn xem cũng vui rồi ". Thế là
chúng tôi cũng đua nhau mà thả hết. Ngài
lấy làm thích chí, khi thấy mấy con còng
lội tung tăng, Ngài nói với hai anh tôi: "Ai
bỏ tù chúng ta, chắc chúng ta sẽ khổ
sở, vì khi mất tự do là mất tất
cả". Nói vậy rồi, Ngài thở dài kém
vui. Nhưng sau đó, Ngài lại hồn nhiên như
tuổi trẻ chúng tôi và lại vui đùa như
cũ.
"Mùa hè gần mãn, vua tôi bịn rịn lúc chia
tay. Chị tôi ứa lệ nhìn Ngài. Ngài bảo
nhỏ tôi:
-Dỗ chị đi em, rồi sang năm chúng ta
sẽ gặp nhau lại.
"Năm sau gần đến hè, chị tôi xin
đi theo chúng tôi ra cửa Tùng. Thân sinh tôi
bảo:
- Con đã lớn rồi, phải ở nhà với
mẹ, không được đi nữa.
"Thế là chị tôi phải ở nhà, khóc sưng
cả mắt. Khi ra đến cửa Tùng, gặp
lại chúng tôi, Ngài hỏi:
-Sao thiếu mất một người?
"Tôi tâu:
-Mẹ chúng tôi bắt chị tôi ở nhà, chị
ấy khóc quá sá.
"Ngài nói: Thật là tội nghiệp cho chị
ấy!
"Mãn hè một tháng, một hôm có người
thị vệ đến xin ảnh chị tôi đem
vào nội cho hai ngài Thái hậu xem mặt. Một
tuần sau, hai Ngài cho đòi thầy mẹ tôi vào
chầu và sau đó, tôi thấy kiệu vua đệ
ra nhà tôi một đôi bông tai và một đôi vòng
vàng cho chị tôi, thầy mẹ tôi quỳ lễ
bái lãnh. Đó là "lễ hỏi" của vua
dành cho chị tôi. Chị tôi cũng ra lạy
tạ ân vua hạ cố.
"Vào khoảng tháng 12 năm 1915, một hôm
thầy tôi ở triều về gọi mẹ tôi vào
buồng nói rất khẽ và nghe tiếng ngập
ngừng như đè nén hơi thở để
khỏi bật ra tiếng khóc. Năm ấy tôi
đã 12 tuổi mà cũng đã tinh ý, giả
bộ xô cửa bước vào tự nhiên,
thấy mẹ tôi mắt đỏ hoe và bảo tôi
ra gọi chị tôi vào.
"Trông thấy chị tôi, thân sinh tôi nói:
- Con vào lấy đôi vòng và đôi bông tai ra đây
để mẹ con đem vào Nội dâng lại cho
vua vì Ngài Ngự muốn từ hôn, mặc dù
chỉ còn hai tháng nữa là đem con vô Nội.
"Chị tôi nghe nói điếng cả người,
tưởng như trời sập cũng không
bằng, lâu lắm mới chạy đi lấy
đồ vàng đưa cho tôi đem vào, chớ không
vô phòng thân sinh tôi nữa. Thân sinh tôi nói là Ngài
Ngự có ban rằng: "Thầy hãy an ủi con gái
của thầy và gả ngay cho người khác,
đừng để cô ấy buồn tội
nghiệp. Thầy nên hiểu vì tôi thương
cả gia đình thầy, nên mới phải từ
hôn với người mà ta mến từ hai năm
nay".
"Thân sinh tôi nói thêm rằng: Ngài Ngự bảo
phải đưa ngay vào Nội một thiếu
nữ khác mà tôi phải chọn lấy. Bà xem ai
đáng giới thiệu không?
"Mẹ tôi đáp: Có cô con gái ông Phụ đạo
Mai Khắc Đôn, tuy không đẹp lắm, song có
đức hạnh. Ông vào tâu xem.
"Một tuần lễ sau, lễ hỏi nhà vua
lại đem đến nhà ông Phụ đạo
họ Mai. (5) Và ngày 30-01-1916, lễ "Nạp
Phi" được tổ chức trọng
thể tại bộ Lễ, đúng với kỳ
hạn triều đình đã rao báo. (6)
Vì sao có sự thay đổi đột ngột như
thế ?
Có phải do những chính biến đương
thời chăng?
Nguyên là từ năm 1912, kỳ bộ Quang Phục
Hội của Phan Bội Châu, do Thái Phiên phụ trách
đã bắt đầu chuẩn bị bạo
động đánh Pháp. Đến năm 1914, Pháp
chiến tranh với Đức, đó là cơ
hội thuận tiện để dân ta vùng lên
tranh đấu cho độc lập nước nhà.
Hàng chục ngàn lính Việt mà Pháp tuyển mộ
để gửi sang "mẫu quốc",
phần lớn đã được cách mạng ta
kết nạp làm "nghĩa binh", sẵn sàng
ứng tiếp lúc lâm sự. Tại đồn Mang
Cá (Huế), Trần Quang Trứ (thư ký tòa Công
sứ Pháp ở Huế) vận động viên
đại tá lính Lê Dương (gốc người
Đức) để nội ứng chỉ huy 3.000
lính mộ, lính khố xanh, lính khố vàng. Trong thành
nội Tôn Thất Đề và đội trưởng
Nguyễn Quang Siêu đốc suất các đội
thân binh, thị vệ trấn giữ hoàng thành.
Trần Đại Trinh điều động lính
tập giữ tòa Khâm sứ Pháp quay súng giúp nghĩa
quân. Một đội cảm tử Nam Ngãi
hiệp cùng dân quân phụ cận kinh thành công
hảm cho được tòa Khâm sứ.
Ở các tỉnh Quảng Trị, Đà Nẳng,
Hội An, Quảng Nam, Tam Kỳ, Quảng ngãi, Bình
Định, ngoài các lực lượng chính
thức (lính tập, lính mộ) đã kết
nạp được, còn có nghĩa quân võ trang
với vũ khí trợ giúp từ bên ngoài
đưa vào.
Cờ khởi nghĩa sẽ nền đỏ
với 5 ngôi sao trắng, lấy ý nghĩa "Ngũ
tinh tụ tĩnh" ở Kinh Dịch.
Phan Bội Châu đang bị Long Tế Quang bắt
giam tại Trung quốc đã bí mật gửi Mai Sơn
Nguyễn Thượng Hiền sang Xiêm liên lạc
với lãnh sự Đức. Lãnh sự Đức
biếu một vạn đồng bạc Xiêm và
hứa nếu hoạt động có tiếng vang ra
để chính phủ Đức được
biết, thì sẽ có viện trợ chính thức
nhiều hơn. (7)
Thái Phiên và Trần Cao Vân giả làm người
đi câu, vào hồ trong thành Nội dâng kế
hoạch lên, vua Duy Tân đồng ý tất cả.
Duy vua lo ngại Pháp sớm đưa 3.000 lính
mộ ở Mang Cá (mà cách mạng đã kết
nạp dược) xuống tàu sang Pháp, nên hạ
chỉ hối thúc hành sự. Ngày khởi nghĩa
định vào một giờ sáng ngày mồng 3 tháng
5 năm 1916, Thái Phiên và Trần Cao Vân điều
động chiếm giữ kinh đô, và rước
Duy Tân ra khỏi hoàng thành, thành công sẽ rước
vua về trở lại.
Nhưng trước đó một ngày, có tên lính
khố xanh ta đã chiêu dụ được,
bảo với anh nó là Võ Huệ làm lính giản
ở dinh Án Sát Quảng Ngãi ngày ấy liệu mà
xin nghỉ kẻo đây rồi sẽ có loạn.
Án Sát Phạm Liệu sinh nghi tra hỏi, Huệ
sợ nên khai ra. Phạm Liệu trình với công
sứ De Tastes. De Tastes mật điện ra Huế.
Khâm sứ Charles ra lệnh thâu tất cả súng
đạn, tập trung hết thảy binh lính
lại, và điện cho các tỉnh biết để
đề phòng.
Trần Quang Trứ, người có công lớn chiêu
dụ lính ở đồn Mang Cá, thấy lệnh
thu súng, cắm trại, biết việc đã
bị lộ, liền đi đến bến Thương
Bạc lúc 11 giờ đêm gặp vua Duy Tân đã
cải trang theo lối thường dân, có Tôn
Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu hộ
vệ, xuống thuyền của Thái Phiên và
Trần Cao Vân đến rước. Trứ
liền đi vòng ra ngã sau vào tòa Khâm Sứ tố
giác.
Cuộc khởi nghĩa bị thất bại, Thái
Phiên và Trần Cao Vân định đưa vua
đi tắt đường núi về địa
điểm đã định là Bà Nà ở
Quảng Nam, nhưng vua bị mệt, tạm
nghỉ lại một ngôi chùa bên núi Ngũ Phong,
gần vùng Nam Giao. Sáng sau, khi nhà vua đang sửa
soạn lên đường, thì có Le Fol, Đổng
lý văn phòng tòa Khâm, Sogny chánh mật thám
Huế, Lanneluc, giám binh với 21 lính khố xanh và
Trần Quang Trứ, còn bên ta có Võ Liêm, Tá Lý
bộ Lễ và Hồ Hành, đội cơ,
với một toán lính Nam triều, đến
bắt. Duy Tân vẫn bình thản, đối đáp
như khi còn ở trong triều. Gặp vua, Le Fol
trịnh trọng cất mũ chào:
- Tâu Hoành Thượng, Ngài ngự giá dạo chơi
xong rồi chứ?
Duy Tân nhún vai đáp:
- Các ông chả hiểu được đâu!
Trần Quang Trứ tiến đến hỏi:
- Tâu Hoàng Thượng, tôi là người cùng
Trần Cao Vân hội kiến Hoàng Thượng
tối qua ở bên Thương Bạc, chẳng hay
Hoàng Thượng có nhớ không?
Vua nhìn Trứ một cách khinh bỉ:
-Phải, ta nhớ mi, đồ phản quốc!
Rồi vua ngoảnh mặt quay sang chỗ khác.
Triều thần gặp vua, vừa mừng vừa
tủi, năn nỉ vua trở về Nội, Duy Tân
khẳng khái từ chối, thà chịu bị
bắt, nhất định không quay lại hoàng
cung. Lính dương lọng rước, Duy Tân không
cho và đi bộ đến chiếc xe của Pháp
đưa vua về giữ ở đồn Mang Cá.
Trần Cao Vân, Thái Phiên, Tôn Thất Đề,
Nguyễn Quang Siêu bị còng tay dẫn về
Huế tống giam, đến ngày 16- 4-1916, cả
bốn vị bị chém tại An Hòa (cách Huế vài
cây số).
Tại các tỉnh cũng xảy ra nhiều
việc thảm sát như thế: Ở Quảng Ngãi
hai cụ Tú Ngung, cử Sụy cùng một số
đông dồng chí bị tội tử hình, 200 người
bị đày đi Côn Lôn. Ở Quảng Nam cũng
rất nhiều người bị liên lụy, Phan
Thành Tài và một số tử hình, hoặc đày
đi Lao Bão, Thái Nguyên, Côn Lôn như y sĩ tân
học Lê Đình Dương, Lý trưởng Lê Cơ,
Tú tài Trương Bá Huy, Đỗ Tự.. Pháp khám
phá nhiều tài liệu tổ chức chính phủ,
quân nhu, quân phục, các ấn tín... Ở Quảng
Trị, Khóa Bão bị tra tấn khốn đốn.
Các tỉnh khác hưởng ứng chậm nên không
bị đàn áp gì nhiều.
Về bản án Duy Tân
Khi còn trong ngục, Trần Cao Vân lo cho vua Duy Tân
bị sát hại, nên viết thư trần tình cùng
thượng thư Hồ Đắc Trung là người
đang phụ trách thảo bản án xử vua. Thư
viết trên cuộn giấy quyến hút thuốc, bí
mật trao người chuyển đi, nhận lãnh
hết công việc bạo động xảy ra
đều do ông và Thái Phiên xúc sử. Cuối thư
ông khẩn khoản Hồ Đắc Trung tìm cách
cứu vua, có câu:
"Trung là ai? Nghĩa là ai? Cân đai võng lọng
là ai? Thà để cô thần tử biệt!
"Trời còn đó! đất còn đó! Xã
tắc sơn hà còn đó! Mong cho thánh thượng
sinh toàn! "
Sư Bà Diệu Không kể lại rằng:
"Vì mảnh giấy ấy mà thân sinh tôi bị
bắt giam mấy ngày ở tòa Khâm để điều
tra. Nếu không nhờ vua Duy Tân khai giải
cứu, ắt thân sinh tôi phải chung một
số phận, với các ông Trần Cao Vân."
Sư Bà thuật lại lời khai của vua Duy Tân
khi bị Pháp cật vấn như sau:
"Hỏi: Ngài nghĩ sao về mảnh giấy
nầy?
"Đáp: Ông Trần Cao Vân làm việc lớn không
thành, sợ tội bị tử hình nên cầu
cứu với ông Hồ Đắc Trung.
"Hỏi: Vì lẽ gì trước kia Ngài từ
hôn với tiểu thư nhà họ Hồ?
"Đáp: Vì tôi thương ông ấy đông
con, sợ ông ấy bị liên lụy. Vả
lại, các đồng chí của tôi khuyên tôi nên
tránh gia đình ấy để bảo mật.
"Hỏi: Vì lẽ gì ông Trần Cao Vân lại
bảo đưa mảnh giấy này cho ông Hồ
Đắc Trung?
"Đáp: Vì ông Hồ Đắc Trung hay cứu
người như đã cứu 42 nhà cách mạng
ở tỉnh Quảng Nam năm 1908 trong vụ dân
"xin xâu" lúc ông ấy làm tổng đốc
ở đấy.
"Hỏi: Ngài có bảo đảm là ông Hồ
Đắc Trung vô tội trong vụ khởi
loạn nầy không?
"Đáp: Tôi xin hoàn toàn bảo đảm cho ông
ấy.
"Thế là mấy ngày sau, thân sinh tôi được
Pháp trả lại tự do. Triều đình ủy
cho thân sinh tôi soạn thảo bản án Duy Tân.
Nội dung bản án đại khái như sau:
"Vua Duy Tân còn nhỏ tuổi, tuy rất thông
minh song còn cạn nghĩ, bị bọn người
mưu phản kích thích lòng ái quốc nên nghe theo.
Nếu đúng tuổi trưởng thành thì
tội Ngài rất nặng, song Ngài còn vị thành
niên, tưởng không đáng trách mà nên thương
tình.
"Đứng về phía chính phủ Bảo
hộ, thì Ngài can tội "phản
nghịch", nhưng đứng về phía chính
phủ Nam triều, thì Ngài là một ông vua
biết thương dân và được lòng dân.
Như vậy, luận về tội, thì quả
thật Ngài có tội đối với chính
phủ Bảo hộ, còn đối với nhân dân
Việt Nam, thì Ngài không có tội gì cả.
"Vậy nên xét tình mà truất phế Ngài và
để cho Ngài được tự do trở
về với danh vị một hoàng tử như trước.
Như thế lòng dân mới khỏi oán thán chính
phủ Pháp là khắc nghiệt... "
"Bản án nầy được Pháp chấp
thuận, nên tuy bị đưa đi đày ở
đảo Réunion gần Phi Châu, Ngài vẫn giữ
tước vị hoàng tử...
"Về sau, thân sinh tôi gả chị tôi cho vua
Khải Định, nên mới được tin dùng
như trước. Tuy được gả cho vua
mới, nhưng tình người con gái vẫn còn
quyến luyến vua cũ không nguôi... " (8)
Năm 1925, Khải Định mất, thọ hơn
40 tuổi, Duy Tân từ đảo Réunion, gửi
về hai câu điếu:
"Ông vội bỏ đi đâu, bỏ tiền,
bỏ bạc, bỏ vợ, bỏ con, bỏ
thầy tu, hát bội, bỏ hết trần duyên
trong một lúc.
"Tôi may còn lại đó, còn trời, còn đất,
còn nước, còn non, còn anh hùng, hào kiệt, còn
nhiều vận hội giữa năm châu".
Về lá bài Duy Tân
Vận hội ấy, phải chăng là cuộc
hội ngộ ngày 14 tháng 12 năm 1945 với Đại
tướng Charles de Gaulle để chọn "lá
bài Duy Tân" giải quyết vấn đề
Việt Nam:
Tướng De Gaulle quyết định đặt
Hoàng tử trở lại ngôi Hoàng đế
Việt Nam, ba kỳ thống nhất, dưới
một chính thể trung ương hoàn toàn tự
do cai trị và tổ chức nền kinh tế
của minh. Pháp đảm nhận phòng thủ biên
cương cho Việt Nam trong một thời
hạn nào đó sẽ được minh định,
để cất gánh nặng cho ta việc tạo
lập một quân đội khi Việt Nam chưa
đủ phương tiện để duy trì và tăng
cường nó. (9) Tướng De Gaulle sẽ đích
thân đưa Hoàng tử hồi loan vào đầu
tháng 3 năm 1946... chẳng may, trên đường
về thăm gia đình ở đảo Réunion, Ngài
tử nạn máy bay ngày 26-12-1945 gần Bangui
thuộc Trung Phi". (10)
Tai nạn hay có mưu sát? Một bạn thân
của vua Duy Tân là ẸP. Thébault cho biết trước
khi rời Paris để về đảo Réunion thăm
vợ con, Hoàng tử Vĩnh San có tiết lộ
rằng: "Nước Anh chống lại việc
tôi về Việt Nam và họ đã đề
nghị tặng tôi 30 triệu nếu tôi từ
bỏ ý định ấy ". Nhưng các
cuộc điều tra cho đến nay chưa ngã
ngũ ra sao cả. (11)
*
Cuộc đời của vua Duy Tân đã bao
lần dang dở. Dang dở vì đã hy sinh mối
tình đầu để tránh mối họa tày
đình có thể xảy ra cho toàn gia người mình
yêu, dang dở vì đã hy sinh ngai vàng của mình
cho tiền đồ chung của đất nước,
nạn nhân muôn thuở của tình đời
phản trắc, của định mệnh khắc
khe.
Nhưng đây là một trong muôn ngàn hy sinh khác
của toàn dân đã đâng hiến trên bàn
thờ Độc Lập cho đất nưóc chúng
ta.
VÕ THU TỊNH (Paris)
CHÚ THÍCH
(1)-Hoàng Trọng Thược, Hồ sơ vua Duy Tân,
Mõ Làng, Paris, 1993, trang 52-53. (Sau đó, Ngô Đình
Khả bị buộc tội lập giáo đường
không xin phép, phải về hưu tại nguyên quán
xã Đại Phong, huyện Lệ Thủy, Quảng
Bình, không được lãnh hưu bổng).
(2)-Báo Cải Tạo ngày 22-1-1949. (Hoàng Trọng Thược,
Hồ sơ vua Duy Tân,.s.đ.d., tr. 75).
(3)- Hoàng Trọng Thược, s.đ.d., trang 373-374.
(4)-Huỳnh Côn, hồi ký, do Jean Jacnal ghi lại
bằng tiếng Pháp, đăng trong Revue Indochinoise
năm 1924 (Hoàng Trọng Thược, s.đ.d.,
tr.95)
(5)- Hoàng Trọng Thược, s.đ.d., trang 102-106.
(6)- Nạp Phi: Trừ Gia Long và Bảo Đại, các
vua của nhà Nguyễn tuy có vợ theo thứ
bậc lớn nhỏ nhưng không bà nào được
phong Hoàng Hậu. Vì từ Minh Mạng, sợ
bị tiếm ngôi, nên đặt ra lệ "ngũ
bất lập" là: Bất lập Hoàng Hậu,
bất lập Đông Cung, bất lập Tể Tướng,
bất phong Vương, bất tuyển Trạng
Nguyên. Còn các bà vợ vua đều gọi là phi,
phân thành 9 cấp: đệ nhất Giai Phi, đệ
nhị Giai Phi... cho đến đệ cửu Giai
Phi. (Hoàng Trọng Thược, s.đ.d., tr.76)
(7)- Hoàng Trọng Thược, s.đ.d., trang 136-137.
(8)- Hoàng Trọng Thược, s.đ.d., trang 143-148.
(9)- Chỉ dẫn của hoàng tử Vĩnh San,
cựu hoàng đế Duy Tân, trong Hồ sơ vua
Duy Tân, s.đ.d., trang 253.
(10)- Lời tiết lộ của cựu Trung tướng
Alain de Boissiau, con rể của Tướng de Gaulle,
trong Hồ sơ vua Duy Tân, s.đ.d., trang 346.
(11)- Hoàng Trọng Thược, s.đ.d., trang 263
|