Nhiễm sắc thể và sự phân cắt tế bào |
Gs. Bùi Tấn Anh - Phạm Thị Nga |
|
|||||||||||||||||||||
CHƯƠNG INHIỄM
SẮC THỂ VÀ SỰ PHÂN CẮT TẾ BÀO
Trong các chương trước chúng ta đã thấy sự sống phụ thuộc như thế nào vào việc sinh vật sử dụng năng lượng của ánh sáng mặt trời để tạo ra các đại phân tử giàu năng lượng và sau đó làm thế nào tất cả các sinh vật phân giải những đại phân tử nầy để phóng thích năng lượng cần cho chúng duy trì tất cả các hoạt động sống. Trong chương nầy chúng ta sẽ khảo sát thêm một hoạt động đặc biệt khác của tế bào: cách thức các tế bào phân cắt và truyền thông tin di truyền từ thế hệ nầy sang thế hệ khác. Như chúng ta đã biết, các gen của sinh vật (đơn vị mang thông tin di truyền) được truyền từ tế bào nầy sang tế bào khác qua các thế hệ của tế bào và của cơ thể. Chúng xác định các đặc điểm của mỗi sinh vật mới và định hướng cho các hoạt động của chúng. Vì vậy sự nhân đôi và phân ly của các nhiễm sắc thể trong quá trình phân bào là cơ sở cho sự kế tục và sự đa dạng của sự sống. I.
NHIỄM SẮC THỂ
Tính
trung bình, các tế bào sơ hạch chỉ có một
phần ngàn ADN so với một tế bào chân hạch.
Sở dĩ chúng được gọi là tế bào
sơ hạch vì chúng chưa có nhân thật được
bao bởi màng. Ở
phần lớn tế bào sơ hạch, ADN được
tập trung trong một vùng
nhân (nucleoid region). Vi
khuẩn chỉ có một phân tử ADN sợi đôi,
hình vòng, rất ít protein liên kết với chúng. Ở
vi khuẩn, ngoài ADN nhiễm sắc thể, còn có
một số ADN dạng vòng, nhỏ hơn, gọi là các
plasmid (Hình 1). Các plasmid
sao chép độc lập với nhiễm sắc thể
chính và chúng có thể được chuyển nhận
giữa các vi khuẩn khi chúng tiếp hợp.
Hình
1. Một vi khuẩn
với nhiễm sắc thể và plasmid
Ở
tế bào chân hạch, nhiễm sắc thể gồm
ADN và protein. Trong các
tế bào dinh dưỡng, các nhiễm sắc thể thường
tồn tại thành từng cặp, gọi là cặp
nhiễm sắc thể tương
đồng (homologous pair), trong đó một chiếc là
của mẹ và một chiếc là của cha,
mỗi chiếc mang cùng một số gen phân bố theo
cùng thứ tự. Vì
vậy, số lượng nhiễm sắc thể trong
mỗi tế bào bình thường luôn luôn là bội
số của 2 và được gọi là lưỡng
bội (2n). Trong tế
bào giao tử (tinh trùng hoặc noãn), mỗi cặp
nhiễm sắc thể tương đồng
chỉ còn lại một chiếc, do đó số lượng
nhiễm sắc thể trong mỗi giao tử là đơn
bội (n). Mặc
dù số lượng nhiễm sắc thể giữa các
loài có thể khác biệt rất lớn, chẳng
hạn ở ruồi giấm 2n = 8, ở người 2n
= 46 nhưng các cá thể bình thường trong cùng
một loài luôn luôn có số lượng nhiễm
sắc thể bằng nhau. Trong
các tế bào chưa phân chia, khi quan sát dưới kính
hiển vi quang học, người ta chưa thấy
được nhiễm sắc thể mà chỉ
thấy các chất nhiễm sắc (chromatin) nằm trong
nhân có dạng hạt bắt màu sậm.
Chất nhiễm sắc được cấu
tạo từ ADN và 2 loại protein: histon và phi histon.
Các protein phi histon có tính acid, được tìm
thấy ở những vùng liên kết lõng lẽo
với ADN. Các protein
histon có tính kiềm, gồm 5 loại: H1, H2A, H2B, H3 và
H4. Khi nhiễm sắc
thể được thành lập, ADN quấn quanh 8 phân
tử histon : H2A, H2B, H3 và H4 (mỗi loại gồm 2 phân
tử) tạo nên một cấu trúc gọi là thể
nhân (nucleosome) (Hình 2). Với
sự tham gia của histon H1, các thể nhân kết
chặc với nhau, cuộn xoắn thành sợi có
đường kính 30 nm, các sợi nầy lại
tiếp tục xoắn tạo thành sợi dầy hơn
(đường kính 300 nm). Khi
các sợi nầy tiếp tục xoắn, các nhiễm
sắc thể được tạo thành.
Hình
2. Cấu trúc của
một thể nhân
Quan sát dưới kính hiển vi quang học người
ta có thể thấy được các nhiễm sắc
thể khi tế bào bắt đầu phân cắt.
Lúc nầy mỗi nhiễm sắc thể đã nhân
đôi, mỗi nhiễm sắc thể gồm 2 nhiễm
sắc tử (chromatid) được nối với nhau
ở vùng tâm động (centromere)
(Hình 3).
Hình
3. Nhiễm sắc
thể đã nhân đôi II.
SỰ NGUYÊN PHÂN
Sự
phân chia tế bào là một đặc điểm
của sự sống. Nó
cho phép một cơ thể đa bào tăng trưởng.
Nó cũng giúp thay thế các tế bào bị thương,
bị chết, giữ cho tổng số tế bào trong
một cá thể trưởng thành tương đối
hằng định. Chẳng
hạn, trong cơ thể người mỗi giây có hàng
triệu tế bào phân chia để duy trì tổng
số khoảng 6.1013 tế bào.
Ðồng thời sự phân chia tế bào cũng là
cơ sở cho sự sinh sản của mỗi sinh
vật.
Ở tế bào chân hạch mỗi chu kỳ
tế bào là một trình tự của các sự
kiện kể từ khi tế bào phân chia thành hai
tế bào con đến khi các tế bào con bắt đầu
phân chia.
Một chu kỳ tế bào gồm hai kỳ: kỳ
trung gian (interphase) và kỳ phân cắt nhân
và tế bào chất (mitotic phase).
Kỳ trung gian được chia làm 3 giai đoạn:
G1, S, G2. Thời gian
cần thiết cho mỗi kỳ khác nhau rất
nhiều tùy theo loại tế bào.
Tuy nhiên, kỳ trung gian thường chiếm
phần lớn thời gian của một chu kỳ
tế bào (Hình 4).
Hình
4. Chu kỳ tế bào
Trong
phần lớn đời sống, tế bào ở vào
giai đoạn không phân chia gọi là kỳ trung gian.
Trong thời kỳ nầy, tế bào tiến hành các
hoạt động sống như hô hấp, tổng
hợp protein, tăng trưởng, chuyên hóa và các
vật liệu di truyền được sao chép.
Lúc nầy trong nhân tế bào chưa xuất
hiện các nhiễm sắc thể, chỉ thấy
được chất nhiễm sắc, màng nhân và
hạch nhân. Ở
tế bào động vật, cạnh nhân còn có 2 trung
tử hình trụ nằm thẳng góc với nhau. Kỳ
trung gian gồm 3 giai đoạn: G1(gap 1), S (synthesis) và G2
(gap 2). Trong giai đoạn
G1 ribô thể và các bào quan bắt đầu nhân đôi.
Trong giai đoạn S, sự tổng hợp ADN
xảy ra cùng với sự tiếp tục nhân đôi
của các bào quan. Khi
sự sao chép ADN kết thúc, giai đoạn G2 bắt
đầu và tế bào chuẩn bị phân cắt nhân.
Sau
giai đoạn G2, tế bào bắt đầu kỳ phân
chia nhân. Kỳ nầy
thường được chia thành 4 giai đoạn riêng
biệt là kỳ trước, kỳ giữa, kỳ sau
và kỳ cuối (nhưng các giai đoạn nầy
thực sự nằm trong một quá trình liên tục,
nối tiếp nhau). a.
Kỳ trước (Prophase)
Ở
tế bào động vật, khi các trung tử nhân
đôi và phân ly về hai cực của tế bào, các
nhiễm sắc thể bắt đầu xoắn
lại, trở nên ngắn và dầy hơn.
Lúc đầu chúng có dạng sợi dài và mãnh,
về sau có dạng hình que ngắn.
Một thoi vi ống giúp các nhiễm sắc
thể phân ly trong quá trình phân cắt cũng được
hình thành ở kỳ trước.
Khi các trung tử bắt đầu phân ly, một
hệ thống vi ống xuất hiện ở gần
mỗi cặp trung tử và tỏa ra theo tất cả
các hướng. Các vi
ống nầy được gọi là các thể sao
(asters). Khi mỗi
cặp trung tử về đến cực tế bào,
một số vi ống nối với các vi ống
ở cực đối diện.
Các vi ống nầy
cùng với các thể sao tạo thành thoi phân bào. Cuối
kỳ trước, màng nhân và hạch nhân dần
dần biến mất, một số vi ống gắn vào
các đĩa protein (gọi là kinetochores) ở tâm động
của nhiễm sắc tử.
Các vi ống này nối tâm động với các
cực (Hình 3). Ở
tế bào thực vật, mặc dù không có trung tử
và các thể sao nhưng vẫn có sự thành lập
thoi vi ống.
b. Kỳ giữa
(Metaphase)
Ðầu
kỳ giữa, các nhiễm sắc thể (lúc đầu
được phân bố ngẫu nhiên trong nhân) bắt
đầu di chuyển về mặt phẳng xích đạo
của thoi phân bào. Ðến
giữa kỳ, các nhiễm sắc thể đã
được sắp xếp trên mặt phẳng
nầy. Cuối kỳ,
tâm động của mỗi cặp nhiễm sắc
tử tách ra, mỗi nhiễm sắc tử trở thành
một nhiễm sắc thể có tâm động riêng. Hình
5. Sự nguyên phân
ở tế bào thực vật A.
Kỳ trước
B. Kỳ giữa
C. Kỳ sau
D. Kỳ cuối c.
Kỳ sau (Anaphase) Sau
khi tâm động đã tách ra, hai nhiễm sắc
thể sẽ phân ly về hai cực đối diện
của tế bào. Lúc này
các vi ống từ hai cực tế bào kéo dài và đẩy
hai cực xa ra. Cuối
kỳ này, tế bào có hai nhóm nhiễm sắc thể
riêng biệt, mỗi nhóm nằm ở một cực
tế bào. Sự phân
chia tế bào chất (cytokinesis) cũng thường
được bắt đầu vào cuối kỳ
nầy. d.
Kỳ cuối (Telophase) Khi
hai bộ nhiễm sắc thể về đến hai
cực, chúng được bao bằng một màng nhân
mới. Sau đó các
nhiễm sắc thể bắt đầu tháo xoắn và
trở lại hình dạng như ở kỳ trung gian,
hạch nhân cũng từ từ xuất hiện trở
lại. Thoi phân bào
biến mất. Sự
phân chia tế bào chất thường cũng được
hoàn tất trong suốt kỳ nầy.
Kỳ cuối kết thúc khi hai nhân mới có
đầy đủ các đặc điểm như
ở kỳ trung gian (Hình 5).
Kết thúc sự phân chia nhân: từ một nhân có
một bộ nhiễm sắc thể (2n) cho ra
hai nhân, mỗi nhân cũng có một bộ nhiễm
sắc thể (2n).
a.
Ở tế bào động vật Sự
phân chia ở một tế bào động vật bình
thường bắt đầu bằng sự thành
lập của một rãnh phân cắt (cleavage furrow)
chạy vòng quanh tế bào. Khi
sự phân chia tế bào chất xảy ra, vị trí
của rãnh thường được xác định
bằng sự định hướng của thoi phân bào,
thường là ở vùng mặt phẳng xích đạo
của thoi. Rãnh nầy
càng ngày càng ăn sâu vào trong cho đến khi nó
cắt ngang qua tế bào, tạo ra hai tế bào mới. b.
Ở tế bào thực vật Vì
tế bào thực vật có vách celluloz tương đối
cứng nên không thể tạo các rãnh phân cắt, do
đó sự phân chia tế bào chất xảy ra theo
một cách khác. Ở
nhiều loài nấm và tảo, màng nguyên sinh và vách phát
triển vào bên trong tế bào cho đến khi hai mép
gặp nhau và tách biệt hoàn toàn thành hai tế bào
con. Ở
thực vật bậc cao một màng đặc biệt
gọi là đĩa tế bào (cell plate) được
thành lập ở mặt phẳng xích đạo
của thoi phân bào. Ðĩa
tế bào ban đầu được hình thành ở
trung tâm của tế bào chất và từ từ lan ra
cho đến khi chạm vào mặt ngoài của tế bào
và cắt tế bào làm hai phần (Hình 6).
tế bào
động vật
tế bào tảo
tế bào thực vật bậc cao
Hình 6. Ba kiểu phân chia tế bào chất Như
chúng ta đã biết, sự nguyên phân giúp duy trì
số lượng nhiễm sắc thể không đổi
trong các tế bào dinh dưỡng.
Trong các tế bào giao tử (trứng và tinh trùng),
số lượng nhiễm sắc thể chỉ
bằng một nửa so với tế bào dinh dưỡng
để khi thụ tinh (một trứng kết hợp
với một tinh trùng) tạo thành hợp tử,
số lượng nhiễm sắc thể lưỡng
bội được khôi phục trở lại.
Quá trình phân chia làm số lượng nhiễm
sắc thể trong giao tử còn một nửa gọi là
sự giảm phân.
Quá trình giảm phân gồm hai lần phân chia,
kết quả từ một tế bào lưỡng
bội (2n) tạo ra bốn tế bào đơn bội
(n). Lần phân chia
thứ nhất có sự giảm số lượng
nhiễm sắc thể, lần phân chia thứ hai có
sự phân ly của các nhiễm sắc tử.
Mỗi lần phân chia đều có 4 giai đoạn:
kỳ trước, kỳ giữa, kỳ sau và kỳ
cuối. Giữa hai
lần phân chia không có kỳ trung gian.
Trước khi tế bào giảm phân cũng có
sự tổng hợp ADN và sự nhân đôi của các
bào quan.
a.
Kỳ trước I
Nhiều
sự kiện diễn ra trong kỳ trước I
của giảm phân giống như trong kỳ trước
của nguyên phân. Các
nhiễm sắc thể từ từ xoắn lại,
trở nên dầy và ngắn hơn, bắt màu đậm.
Hạch nhân và màng nhân từ từ biến
mất, thoi phân bào được thành lập.
Nghiên cứu bằng phương pháp đánh
dấu (dùng các chất đồng vị phóng xạ)
cho thấy sự nhân đôi của vật liệu di
truyền xảy ra trong kỳ trung gian (trước
kỳ trước I) nhưng hai nhiễm sắc tử
chưa tách biệt nhau. Tuy
nhiên, có những khác biệt quan trọng giữa
kỳ trước I của giảm phân
với kỳ trước của nguyên phân. Ðiểm
khác biệt chủ yếu nhất là các nhiễm
sắc tử của mỗi cặp nhiễm sắc
thể tương đồng luôn luôn nằm cạnh
nhau và cùng di chuyển. Hai
nhiễm sắc tử của mỗi nhiễm sắc
thể còn được giữ chặc với nhau
bởi một cặp trục protein mỏng chạy
dọc theo suốt chiều dài nhiễm sắc thể.
Các trục protein của hai nhiễm sắc thể
tương đồng được nối với
nhau bằng cầu protein chéo tạo thành một cấu
trúc gọi là phức hệ tiếp
hợp (synaptonemal complex), kết nối 4 nhiễm
sắc tử với nhau tạo thành tứ tử
(tetrad). Quá trình này
gọi là sự tiếp hợp (synapsis). Lúc naöy một quá trình quan trọng là sự trao đổi chéo (crossing over) bắt đầu. Nhiễm sắc tử của nhiễm sắc thể này sẽ trao đổi một số đoạn với nhiễm sắc tử của một nhiễm sắc thể khác trong cặp tương đồng, tạo ra các nhiễm sắc tử lai. Khi phức hệ tiếp hợp bị phá vỡ, hai nhiễm sắc tử lai vẫn còn dính nhau tại các điểm gọi là điểm bắt chéo (chiasma) trong cặp nhiễm sắc thể tương đồng (Hình 7).
Hình
7. Sự trao đổi
chéo
Cuối kỳ trước I phần lớn các
nhiễm sắc thể có hai nhiễm sắc tử lai
(vì vật liệu di truyền đã được trao
đổi giữa hai nhiễm sắc tử của hai
nhiễm sắc thể tương đồng).
Các vi ống xuất hiện, tỏa ra từ hai
cực tế bào, một số vi ống đính vào tâm
động. b.
Kỳ giữa I Các
cặp nhiễm sắc thể tương đồng
hoạt động như một đơn vị
thống nhất, di chuyển và tập trung về
mặt phẳng xích đạo của thoi phân bào. c.
Kỳ sau I Tâm
động của hai nhiễm sắc thể không phân
chia, do đó chỉ có sự tách và phân ly về hai
cực tế bào của hai nhiễm sắc thể.
Vì mỗi nhiễm sắc thể có một tâm
động gắn
với các vi ống của một cực nên hai
nhiễm sắc thể của mỗi cặp tương
đồng sẽ được kéo về hai cực
đối diện. d.
Kỳ cuối I Kỳ
cuối I của giảm phân và kỳ cuối của
nguyên phân giống nhau, chỉ khác biệt là trong
giảm phân mỗi nhân mới được thành
lập chỉ còn một nửa số nhiễm sắc
thể so với
nhân ban đầu và mỗi nhiễm sắc thể
đều có hai nhiễm sắc tử. Tiếp theo lần phân chia thứ I có một kỳ ngắn tương tự kỳ trung gian giữa hai lần nguyên phân nhưng không có sự sao chép vật liệu di truyền và do đó không có sự tạo thành các nhiễm sắc tử mới.
Ðây
là lần phân chia nguyên nhiễm (số lượng
nhiễm sắc thể không đổi sau khi phân chia).
Ở kỳ trước II không có hiện tượng
tiếp hợp vì tế bào không có các nhiễm sắc
thể tương đồng, thoi phân bào được
thành lập từ các vi ống.
Sang kỳ giữa II các nhiễm sắc thể
tập trung về mặt phẳng xích đạo
của thoi phân bào, các sợi thoi đính vào tâm động.
Sau đó tâm động phân chia, mỗi nhiễm
sắc tử tách thành
nhiễm sắc thể . Trong
kỳ sau II, mỗi nhiễm sắc thể
phân ly về hai cực tế bào.
Ðến kỳ cuối II, bốn nhân mới
được thành lập, mỗi nhân có số
nhiễm sắc thể đơn bội. IV. SỰ GIẢM PHÂN VÀ CHU KỲ SỐNG CỦA SINH VẬT Sự
giảm phân ở thực vật thường tạo ra
các tế bào sinh sản đơn bội (n) gọi là
các bào tử (spores).
Các bào tử này thường nguyên phân để
phát triển thành cơ thể đa bào đơn
bội.
Ở một số thực vật sơ khai như
Tảo, các bào tử đơn bội (giai đoạn
1) nguyên phân và phát triển thành cơ thể đa bào
đơn bội, tăng trưởng nhanh, ít chuyên hóa.
Giai đoạn nầy chiếm phần lớn chu
kỳ sống (giai đoạn 2).
Các cơ thể đa bào nầy nguyên phân tạo
ra các giao tử đơn bội (giai đoạn 3).
Qua thụ tinh, các giao tử tạo thành hợp
tử lưỡng bội (giai đoạn 4).
Ngay sau đó hợp tử giảm phân để
tạo ra 4 bào tử đơn bội, bắt đầu
một chu kỳ mới. Ở
các thực vật này, giai đoạn đơn bội
chiếm ưu thế, giai đoạn lưỡng
bội ở hợp tử rất tạm thời. Ở
Dương xĩ, giai đoạn lưỡng
bội và đơn bội trong chu kỳ sống
xấp xĩ nhau. Ởí
giai đoạn lưỡng bội của chu kỳ
sống, các tế bào trong cơ quan sinh sản giảm
phân tạo ra các bào tử đơn bội (giai đoạn
1). Các bào tử này
nguyên phân và phát triển thành các cây đa bào
đơn bội (giai đoạn 2).
Sau cùng, chúng tạo ra các giao tử đơn
bội bằng sự nguyên phân (giai đoạn 3).
Sự thụ tinh phối hợp hai giao tử thành
hợp tử lưỡng bội (giai đoạn 4).
Hợp tử sẽ nguyên phân và phát triển thành
một cây đa bào lưỡng bội.
(giai đoạn 5). Khi
cây nầy giảm phân tạo bào tử, một chu
kỳ mới bắt đầu. Ở các thực vật hột kín, giai đoạn 1 và giai đoạn 2 tiêu giảm, chỉ còn 3 - 8 tế bào không sống tự do và phần lớn đời sống của nó là cây đa bào lưỡng bội. (giai đoạn 5) (Hình 8).
Trừ
một ít ngoại lệ, các động vật bậc
cao tồn tại ở dạng cơ thể đa bào lưỡng
bội trong toàn bộ chu kỳ sống của chúng.
Vào thời kỳ sinh sản, sự giảm phân
sẽ tạo ra các giao tử đơn bội.
Khi nhân của các giao tự hợp nhất lại
trong thụ tinh sẽ tạo ra một hợp tử lưỡng
bội. Sau đó
hợp tử nguyên phân để tạo ra một cá
thể đa bào mới. Như
vậy, chỉ có các giao tử (tinh trùng và trứng) là
ở giai đoạn đơn bội trong chu kỳ
sống của động vật. Hình 8. Bốn kiểu chu kỳ sống của sinh vậtỞ động vật đực, các tinh trùng được tạo ra từ các biểu mô sinh tinh nằm trong ống sinh tinh của các dịch hoàn (testes). Khi một trong các tế bào biểu mô giảm phân, bốn tế bào đơn bội nhỏ, kích thước xấp xĩ nhau được tạo ra. Sau đó cả bốn tế bào nầy đều được chuyên hóa thành tinh trùng (sperm), có đuôi dài, với một ít tế bào chất ở phần đầu. Quá trình sản sinh tinh trùng gọi là sự sinh tinh (spermatogenesis). Ở động vật cái, các tế bào trứng được tạo ra trong các nang của buồng trứng (ovaries) bởi một quá trình gọi là sự sinh trứng (oogenesis). Khi một tế bào trong buồng trứng giảm phân , các tế bào đơn bội được tạo thành có kích thước rất khác nhau. Lần phân bào thứ I tạo ra một tế bào tương đối lớn và một tế bào rất nhỏ gọi là thể cực (polar body) thứ nhất. Trong lần phân bào thứ II, tế bào lớn lại cho ra một thể cực nhỏ thứ hai và một tế bào lớn. Tế bào lớn sau đó chuyên hóa thành tế bào trứng (ovum). Thể cực thứ nhất có thể tiếp tục phân chia lần thứ II hoặc không phân chia. Các thể cực này không có chức năng. Như vậy khi một tế bào lưỡng bội trong buồng trứng hoàn tất giảm phân , chỉ có một tế bào trứng được tạo ra (Hình 9).
Hình
9. Sơ đồ minh
họa sự sinh tinh và sinh trứng ở động
vật
|