- V́ sao châu chấu bay thành
đàn?
-
-
-
-
-
Thực vật có chứa hoóc môn động
vật không?
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
Viên đạn và tiếng nổ, cái ǵ
chạy nhanh hơn?
-
-
Chuyện lạ của âm thanh
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
V́ sao băng ở Nam cực nhiều
hơn ở Bắc cực?
-
Tại sao người ta thích "đua
đ̣i"?
-
-
-
V́ sao một số thực vật rỗng
thân?
-
-
Tại sao nước biển mặn?
-
-
-
-
-
-
-
-
-
1 V́ sao châu chấu bay
thành đàn?
Châu chấu dù bay ở trên trời hay
đỗ dưới mặt đất vẫn duy tŕ
tính hợp quần. Đây không phải là sở thích
nhất thời, mà do thói quen đẻ trứng và nhu
cầu về mặt sinh lư của chúng.
Việc châu chấu thích hoạt động
thành đàn có quan hệ rất lớn đến thói
quen đẻ trứng. Đến mùa giao phối, châu
chấu lựa chọn vị trí đẻ trứng tương
đối nghiêm khắc, thích hợp nhất là môi trường
có chất đất cứng, có độ ẩm tương
đối và có ánh sáng mặt trời trực
tiếp. Trên những cánh đồng rộng lớn,
khu vực có thể đáp ứng các tiêu chuẩn này
tương đối ít, do vậy, châu chấu thường
tập trung đẻ trứng hàng loạt trên một
phạm vi không lớn lắm. Thêm vào đó, trong khu
vực nhỏ này, chênh lệch độ ẩm là
rất ít, khiến cho trứng nở đồng
loạt, đến mức châu chấu non vừa chào
đời đă h́nh thành thói quen sống cùng nhau,
đi theo nhau.
Mặt khác, châu chấu phải sống
theo đàn cũng là do nhu cầu về mặt sinh lư.
Chúng cần nhiệt độ cơ thể tương
đối cao để hoạt động. V́
vậy, việc sống thành đàn sẽ giúp chúng
duy tŕ nhiệt độ trong cơ thể. Tất
cả những con châu chấu trong đàn đều có
chung đặc điểm này. Bởi vậy, trước
khi chúng kết đàn, chỉ cần vài con lượn
ṿng trên không trung, rất nhanh sau đó, những con khác
dưới mặt đất sẽ cảm ứng và
đồng loạt bay lên.
2 V́ sao trong cây có điện?
|
Các điện tích dương thường
tập trung ở dễ, và âm ở ngọn cây. |
Một số hoạt động sống
trong cơ thể sinh vật tạo ra điện
trường và ḍng điện, gọi là điện
sinh vật. Ở một số động vật,
hiện tượng này rất rơ, ví dụ cá ch́nh
điện có thể dùng điện sinh vật để bắn
chết những con mồi nhỏ. Trong cây cũng
có điện, nhưng chỉ yếu hơn mà thôi.
Ḍng điện trong cơ thể thực
vật yếu đến nỗi nếu không dùng
đồng hồ điện siêu nhạy th́ khó mà phát
hiện ra. Nhưng ḍng điện yếu không có nghĩa
là không có. Vậy điện trong cây phát sinh như
thế nào?
Có rất nhiều nguyên nhân khiến cây
sản sinh ra điện. Ví dụ ở rễ, ḍng
điện chạy từ chỗ này sang qua khác, v́
sự chênh lệch điện tích do các đoạn
rễ hấp thụ muối khoáng không đều.
Bây giờ chúng ta hăy quan sát quá tŕnh
hấp thụ khoáng kali clorua của cây đậu
tương. Các ion của kali clorua được
hút vào rễ. Clo(-) từ rễ được hút
lên các tế bào ngọn, làm tăng số ion âm
trên ngọn, trong khi đó, các ion dương
của K+ lại tập trung ở đầu rễ. Kết
quả là xuất hiện một điện thế
giữa ngọn và gốc. Tuy nhiên, cường
độ ḍng điện trong cây rất nhỏ.
Theo tính toán, tổng ḍng điện trong 100 tỷ
cây đậu tương mới đủ thắp sáng
một ngọn đèn 100 W.
3 Tại sao tai biết tiếng động
từ đâu dội tới?
|
Âm thanh đến hai tai nhanh, chậm
và có cường độ khác nhau, v́ thế
bạn biết được hướng
của nó. |
Một người từ nhỏ đă
điếc một tai. Khi bạn gọi, người
đó phải ngó quanh ngó quẩn tứ phía xem
bạn ở đâu gọi tới. Tại sao người này
lại mất khả năng xác định vị trí? Ấy
là v́ muốn xác định hướng của
tiếng động, bạn cần phải "thông" cả
hai tai.
Thí nghiệm tâm lư học cho thấy,
nếu chỉ có một tai nhận được kích
thích của hai nhóm sóng âm nối tiếp nhau, từ
hai phía có cường độ như nhau, khoảng cách
bằng nhau, nhưng khác hướng, th́ hiệu
ứng sóng âm của hai nhóm đó với tai là như
nhau. Như vậy, người ta không thể nào phân
biệt được hướng của nguồn âm.
Nếu cả hai tai đều nhận
được tín hiệu, t́nh h́nh lại khác.
Một trong những căn cứ để ta
nhận ra hướng tiếng động là chênh
lệch thời gian giữa hai tai.
Nếu nguồn âm ở bên phải người
nghe, sóng âm đến tai phải nhanh hơn đến
tai trái một khoảnh khắc. Dùng đồng
hồ đo chính xác sẽ thấy, cho dù chênh
lệch thời gian chỉ là 30% giây, người ta
vẫn nhận ra được hướng
tiếng động.
Căn cứ thứ hai là chênh lệch
về cường độ âm thanh. Nguồn âm có
thể đập vào tai ở gần mạnh hơn
tai kia một chút. Cường độ dù nhỏ cũng
đủ để chúng ta xác định được
chính xác vị trí của tiếng động ở bên
trái hay bên phải.
C̣n một vấn đề nữa:
Nếu nguồn âm ở bất kỳ nơi nào trên
mặt phẳng dọc giữa mặt, sóng âm đến
cùng một lúc, đập vào màng nhĩ với cường
độ như nhau, khi đó liệu chúng ta có
thể nói chính xác vị trí của nguồn âm không?
Nó ở đằng trước, đằng sau, ở
trên hay ở dưới? Rất đơn giản, ta
chỉ cần ngoảnh đầu đi là xong. B́nh thường,
ta thực hiện động tác này rất nhẹ nhàng
nên hầu như không để ư tới. Trong
thực tế, bao giờ ta cũng ngoảnh đầu,
đồng thời dùng mắt để giúp t́m hướng
có tiếng động.
4 Chim sẻ ăn hạt, v́ sao nuôi con
bằng sâu?
Chim sẻ là loài chim thường gặp
nhất, đâu đâu cũng có chúng, từ ŕa làng,
sân phơi đến ruộng lúa… Chỉ cần nh́n
qua cái mỏ h́nh nón, thô ngắn và khỏe là đủ
biết chúng mổ hạt “ác” như thế nào.
Ấy vậy mà mùa sinh sản, chúng lại tíu tít t́m
sâu cho chim non.
Té ra, chim non trưởng thành nhanh, trao
đổi chất của chúng rất mạnh, do đó
cần thức ăn giàu dinh dưỡng để
thỏa măn nhu cầu hàng ngày. Hơn nữa, chim non c̣n
quá bé, chức năng dạ dày kém, chưa đủ
sức nghiền nát và tiêu hóa quả, hạt ngũ
cốc cứng. V́ vậy, một số loài chim b́nh
thường ăn hạt, thời kỳ nuôi con th́ luôn
t́m kiếm thức ăn động vật, chứa
nhiều dưỡng chất cho con. Ví dụ chim tê
điêu, loài chim quư hiếm của Trung Quốc, b́nh
thường ăn quả dại, lúc nuôi chim non th́
bắt chim non của loài khác để chăm con
ḿnh, có khi nó bắt cả một con kỷ (loài hươu
nhỏ) xé ra từng mảnh rồi đem cho con.
Chim sẻ sinh sản đúng dịp xuân
hè, mùa côn trùng nở rộ, nên chúng tha hồ
bắt các loại côn trùng có hàm lượng protein
cao.
5- V́ sao ở vùng núi có nhiều khoáng
sản kim loại?
|
Khu công nghiệp Ruhr ở Tây Đức
vốn là một vùng đồi núi với
nhiều khoáng sản kim loại. |
Một điều thực tế là ở
đồng bằng có rất ít khoáng sản kim
loại. V́ thế, những nước đồng
bằng tuy mạnh về nông nghiệp, nhưng
lại thiếu các mỏ quặng đồng,
sắt, kẽm... Bạn có biết v́ sao kim
loại lại hay xuất hiện ở vùng đồi
núi không?
Vùng đối núi là những khu vực
bị nhô lên khi vỏ trái đất vận động.
Tùy theo sự nhô lên của vỏ trái đất mà
những dung nham nóng chảy (magma) - vốn nằm
sâu dưới ḷng đất - có cơ hội nhô lên
và hoạt động. Magma chứa một lượng
lớn các muối của axit silic. Ngoài ra, magma c̣n
chứa nhiều kim loại nóng chảy như vàng,
đồng, ch́, thiếc, molybden...
Khi magma trào lên đến gần mặt
đất, do nhiệt độ giảm, nó nguội đi,
rắn thành đá peridot, đá hoa cương...
Những đá rắn này chủ yếu do các
muối của axit silic hợp thành. C̣n các nguyên
tố kim loại, khi gặp điều kiện
nhiệt độ, áp lực thích hợp, thường phân
ly khỏi magma, h́nh thành quặng khoáng sản kim
loại. Các quặng này xuất hiện tương
đối tập trung, h́nh thành mỏ. Chính v́
thế, nguời ta hay t́m thấy khoáng sản kim
loại ở vùng đồi núi.
6- Thực vật có chứa hoóc môn động
vật không?
Năm nọ, lá dâu mất mùa, tằm
lại đến tuần tuổi thứ năm,
nếu nhịn đói sẽ không kéo kén được.
Có người lượm cỏ xước đem
luộc lên, lấy nước phun lên lá dâu cho
tằm ăn. Thật kỳ lạ! tằm kéo kén
ngay. Th́ ra, thân cây có chứa chất kích thích
lột xác, giống như chất mà côn trùng
tự tiết ra.
Chính chất này làm tằm vội vàng
"vứt áo bỏ giáp", lột xác hoá
nhộng. Điều này thật khác thường, v́
chất kích thích trong động vật và thực
vật - hai ngành lớn trong giới sinh vật -
không có liên quan ǵ với nhau. Chẳng hạn,
chất kích thích trong thực vật như auxin,
gibberelin, chất phân bào… không có tác dụng ǵ
với động vật.
Hiện tượng này lần đầu
tiên được biết đến vào năm 1966, một
nhà khoa học Nhật Bản đă phát hiện trong cây
thông la hán (Podocarpus chinensis) trồng ở Đài
Loan có hoạt tính của chất kích thích lột xác.
Từ đó, người ta mới biết
giữa hai ngành này vẫn có những quan hệ lư thú.
Vậy là các nhà khoa học đă
tiến hành chọn lựa rộng răi trong hơn 200
họ, hơn 1.000 loài cây và t́m ra hơn 100 loại
chất kích thích lột xác. Ngày nay, việc ứng
dụng chất kích thích này để tăng
sản lượng tơ tằm không c̣n xa lạ
nữa.
Điểm lư thú là chất kích thích
lột xác thực vật có ưu điểm hơn
chất kích thích do chính côn trùng tự tiết ra.
Ngoài việc phân bố rộng, dễ kiếm, nó
lại có hàm lượng rất cao, có loại cây chứa
đến hơn 1 kg/100 kg chất thô. Trong khi từ
500 kg nhộng tằm chỉ lấy được 25
gram chất kích thích lột xác.
Trong thực vật không những có
chất làm côn trùng “chóng già”, mà c̣n có
“thuốc trường sinh bất lăo" nữa.
Những năm 70, có một nhà khoa
học Tiệp Khắc chuyên nghiên cứu sự
biến thái của côn trùng. Ông đem một
giống sâu gọi là hồng xuân từ Prague đến
Đại học Harvard ở Mỹ, và phát
hiện thấy con sâu sau khi thay đổi nơi
ở không hoá nhộng được, vẫn giữ
nguyên trạng thái sâu non. V́ sao vậy? Đối
chiếu điều kiện nuôi dưỡng ở hai
nước mới thấy, nguyên nhân nằm ở
tấm giấy lót dùng để nuôi cấy sâu
ấy.
Hoá ra, trong một số loại giấy
do Mỹ sản xuất có chứa chất kéo dài
trạng thái sâu non hồng xuân. Lần về
ngọn, th́ thấy thứ cây dùng làm loại
giấy này có chứa chất chống lăo hoá như
thung dung (Glyptostrobus pensilis), thông, thuỷ tùng, thông
rụng lá (Larix gmelini). Đó là chất este
methy, dẫn xuất của axit béo. Chính nó là chất
làm cho côn trùng trường sinh bất lăo. Tuy nhiên,
thứ chất này chứa trong thực vật rất
ít, phân bố cũng không rộng.
V́ sao thực vật lại có hoóc môn
động vật. Có người giải thích
rằng đó là nhu cầu tự vệ của
thực vật, bởi v́ côn trùng sau khi ăn
những cây đó sẽ lột xác sớm hoặc
dẫn tới ngộ độc, bất lợi cho chúng.
Nhưng cũng có người cho rằng đây là nhu
cầu sinh sản của bản thân thực vật.
Tuy nhiên, đó cũng mới chỉ là các suy
luận.
7- Làm thế nào để biết một ḥn
đá là thiên thạch?
|
Thiên thạch có những vết
rỗ rất đặc trưng. |
Nếu đặt trước mắt
bạn một đống đá và sắt cục,
bạn có phân biệt được ḥn nào là thiên
thạch, ḥn nào là đá hay sắt tự nhiên không?
Chẳng khó lắm đâu. Để ư một chút,
bạn sẽ thấy thiên thạch có lớp vỏ
mỏng và những rănh không khí rất đặc trưng.
Khi bay vào bầu khí quyền, thiên
thạch cọ sát với không khí nên bề
mặt bị nóng lên mấy ngh́n độ, và
chảy thành nước. Sau đó, khi nguội
dần, bề mặt nóng chảy này đóng lại
thành một lớp vỏ mỏng gọi là lớp
vỏ nóng chảy, thường chỉ dày độ
1 mm, màu nâu hoặc nâu đen.
Trong quá tŕnh lớp vỏ này nguội
dần, không khí thổi qua bề mặt nó và để
lại những vết hằn rơ, gọi là các rănh không
khí, trông giống như vết ngón tay để
lại khi ta nắm bột ḿ. Lớp vỏ nóng
chảy và những rănh không khí là đặc điểm
chủ yếu của thiên thạch. Nếu thấy
tảng đá hay cục sắt nào có các đặc
điểm kể trên, th́ có thể khẳng định
đó là thiên thạch.
Một số thiên thạch rơi
xuống đất lâu ngày, bị mưa nắng
phong hóa làm bong mất lớp vỏ cứng. Trường
hợp đó, khó nhận ra các rănh không khí,
nhưng đă có cách khác để nhận ra chúng.
Thiên thạch đá trông rất giống đá
trên trái đất, nhưng với cùng thể tích,
bạn sẽ thấy nó nặng hơn nhiều. Chúng
thường chứa một lượng sắt
nhất định, có từ tính, dùng nam châm thử là
biết ngay. Ngoài ra, quan sát kỹ mặt cắt
của thiên thạch đá, bạn sẽ thấy
trong đó có rất nhiều hạt tṛn nhỏ,
đường kính 1-3 mm. 90% thiên thạch đá đều
có những hạt tṛn nhỏ như vậy.
Thành phần chủ yếu của thiên
thạch đá là sắt và niken, trong đó
sắt chiếm khoảng 90%, niken 4-8%. Lượng niken
trong sắt tự nhiên trên trái đất không
nhiều như vậy. Nếu mài nhẵn mặt
cắt của thiên thạch sắt rồi dùng axit
nitric bôi vào, sẽ xuất hiện những vết
rỗ rất đặc biệt, giống như các ô
hoa. Đó là v́ thành phần các chất trong thiên
thạch sắt phân bố không đều, chỗ
nhiều chỗ ít niken. Chỗ chứa nhiều niken khó bị
axit ăn ṃn và ngược lại, tạo nên các
đường vân. Đây cũng là một cách
để nhận biết thiên thạch.
8- V́ sao buổi trưa nóng nực không nên
tưới cây?
Mùa hè trời rất nóng, nhất là vào
buổi trưa. Nhiệt độ trong đất
cũng cao dần cho đến giữa ngày. Lúc này,
nếu tưới nước th́ đất đang
nóng sẽ hạ nhiệt đột ngột, trong khi
nhiệt độ không khí bên ngoài tương đối
cao. Sự thay đổi giật cục này khiến hoa
vốn non yếu sẽ chịu không nổi và
chết.
Nước có tỷ nhiệt cao, gấp
4 lần so với tỷ nhiệt không khí. Nghĩa là
khi hút và tỏa nhiệt, nhiệt độ của nước
ít chênh lệch, do đó nó luôn thấp hơn
nhiệt độ không khí (chỉ xét các nước
nhiệt đới). Nếu tưới nước lúc
đất đang nóng sẽ làm đất lạnh
đi rất nhanh.
Vào buổi sáng sớm và chiều
tối, v́ nhiệt độ không khí tương
đối thấp, nên sau khi tưới, nhiệt
độ giữa đất và không khí chênh lệch
ít, không gây nguy hiểm làm chết cây. Nếu
trời râm mát th́ tưới nước lúc nào cũng
được.
Ngoài hoa, nói chung rau và một số loài
cây thân thảo khác đều không nên tưới nước
lạnh vào trưa hè. Có khi trong ngày hè nóng nực,
buổi trưa bỗng đổ mưa rào, rau non
bị chết ngạt hết cũng là v́ lư do trên.
9- Làm thế nào để tranh sơn
dầu hết đen?
Pḥng triển lăm trưng bày nhiều
bức họa vẽ cảnh tuyết bay, khoác
lên vạn vật một màu trắng sống động.
Nhưng sau nhiều năm, màu tuyết xỉn
dần, tranh biến thành cảnh chết. Một
nhà hoá học đến triển lăm, dùng bông tẩm
hoá chất lau nhẹ mặt tranh. Cảnh
tuyết hiện ra lung linh ngay sau đó.
Nhà hóa học đă dùng dung dịch oxi
hoá (nước oxy già - H202) để làm biến
mất mầu đen trên bức tranh. Ông xử lư
được "lỗi thời gian" này v́
biết màu tuyết trắng trên bức tranh sơn
dầu có thành phần là bột phấn ch́ (ch́
II oxit). Phấn ch́ thường là màu trắng, nhưng
nó có thể tác dụng với khí hydro sunfua trong không
khí tạo thành ch́ sunfua màu đen.
Tuy nhiên, v́ phản ứng xảy ra
chậm, đồng thời, lượng khí
hydro sunfua trong không khí ít, nên lượng ch́ sunfua
tạo thành cũng không nhiều. Do vậy màu
trắng trên bức họa chỉ bị sẫm màu mà
không đen hẳn. Chỉ cần dùng dung dịch H202
lau qua bức tranh th́ sẽ biến màu đen
của ch́ sunfua thành phấn ch́ màu trắng.
Hydro sunfua trong không khí xuất hiện
khi chúng ta đốt nhiên liệu. Chẳng hạn trong than đá có từ 1-1,5 % lưu
huỳnh, dầu mỏ cũng có lưu huỳnh. Khi đốt cháy nhiên liệu, lưu huỳnh tác
dụng với oxi tạo thành hydro sunfua. Chất này cũng sinh ra trong quá
tŕnh thối rữa của động vật
10- Tại sao nên xếp hồng với lê khi
giấm?
|
Quả chín thoát ra nhiều khí
ethylene. |
Kinh nghiệm dân gian cho thấy, khi ngắt
những trái hồng xanh về giấm thường
rất lâu chín. Nhưng nếu người ta để
vào mấy quả lê hay vài quả hồng chín th́
những quả xanh cũng mau chín hơn hẳn.
Trong mỗi quả xanh đều có
một loại axit gây chua, chát. Ví dụ trong hồng
có axit tanin, táo có axit malic, quưt, chanh có axit xitric... Khi
quả chín, các axit này bị phân hủy dần và
vị chua, chát sẽ mất đi. Màu quả cũng
chuyển từ xanh qua vàng.
B́nh thường, chỉ cần
chờ đợi th́ quả xanh nào rồi cũng chín,
nhưng không phải ai cũng kiên nhẫn được
như vậy. Mặc khác, đến vụ người
ta muốn thu hoạch một lần nhiều quả chín.
V́ thế cần có cách làm chúng chín nhanh hơn, đó
là nghệ thuật giấm hoa quả. Trước
thế kỷ 20, người ta không hiểu v́ sao khi
đưa một vài quả chín vào đám quả xanh
th́ quá tŕnh chín diễn ra nhanh hơn.
Mọi bí mật được hé
mở khi nhà hóa học Svet t́m ra phương pháp
sắc kư - tức là phương pháp xác định
thành phần các chất khí. Đo đạc cho
thấy quả chín thường thoát ra khí ethylene.
Một số quả như lê, táo chín nhanh hơn các
quả hồng, mận. Chúng cũng giải phóng
nhiều ethylene hơn. Loại khí này có cấu trúc phân
tử gồm một nguyên tử carbon và 4 nguyên
tử hydro. Nó có tính hoạt động hóa học tương
đối mạnh, xúc tiến hoạt động hô
hấp của cây, khiến ôxy dễ lọt qua
lớp vỏ vào quả hơn, và quả cũng chín
nhanh hơn. Chính v́ vậy, khi xếp mấy quả lê
hoặc vài quả hồng chín vào một rổ
hồng xanh th́ có thể tiết kiệm được
thời gian giấm.
11- V́ sao trong sa mạc có nấm đá ?
|
Nấm đá ở sa mạc Gioocdani,
cao xấp xỉ 8 mét. |
Trong sa mạc, thỉnh thoảng bạn
sẽ bắt gặp từng ḥn nham thạch cô
độc nhô lên như cây nấm đá, có ḥn
cao đến 10 m. Ngắm cái “bụng” thon và cái
“đầu” nặng nề của nó thật thú
vị. Chúng là kiệt tác của nhà điêu khắc
nào vậy? Của nhà điêu khắc vô danh - gió trong
sa mạc.
Những khối nham thạch kỳ
lạ này là do bị gió cát cọ sát, mài ṃn ngày
này qua ngày khác mà nên. Những hạt cát nhỏ
bị gió cuốn lên rất cao, trong khi những
hạt cát tương đối thô nặng th́
chỉ bay là là gần mặt đất. Trong điều
kiện tốc độ gió b́nh thường, hầu
như toàn bộ sỏi đều tập trung ở
tầm cao chưa tới 2 mét. Có người đă làm
một thực nghiệm thú vị ở phần nam
Đại sa mạc Takla Makan, th́ thấy khi tốc
độ gió là 5,7 m/giây th́ có tới 39% sỏi
chỉ bay tới độ cao dưới 10 cm, trong
đó phần cực lớn hầu như bay sát
mặt đất.
V́ vậy khi gió cuốn sỏi cát bay
qua, phần dưới tảng nham thạch cô lập
bị rất nhiều hạt sỏi cát không ngừng
mài ṃn, phá hủy tương đối nhanh. C̣n
phần trên, v́ gió mang theo tương đối
ít sỏi cát nên sự mài ṃn diễn ra chậm hơn.
Ngày qua tháng lại, dần h́nh thành “nấm đá”
có phần trên thô lớn, phần dưới nhỏ.
Nếu phần dưới của nham
thạch mềm, phần trên cứng chắc th́
thậm chí ở chỗ không bị gió cát mài ṃn,
chỉ dưới tác dụng phá hoại của các
lực tự nhiên khác, nham thạch cũng sẽ
bị tạc thành nấm đá.
12- V́ sao mực xanh đen được
ưa chuộng?
Các loại mực thường dùng có màu
đỏ, xanh và xanh đen. Với hai loại mực
đỏ và xanh, chữ viết ra rất nét, nhưng
nếu gặp nước, dễ bị nhoè đi.
Trong khi đó, mực xanh đen gặp nước
vẫn "vô tư", và rất bền với
thời gian. Tại sao lại như vậy?
Mực đỏ và mực xanh được
điều chế bằng cách hoà các phẩm mầu
tương ứng vào nước mà thành. Các loại
màu này rất dễ tan khi gặp nước, nên
chữ viết hay bị nhoè đi. Mực xanh đen
không bị nhược điểm này là do phương
pháp chế tạo ra nó. Nguyên liệu chế tạo
gồm: tanin, axit galic và sắt (2) sunfat. Ngoài ra, trong
mực c̣n có một ít axit sunfuric, có tác dụng ngăn
ngừa sắt (2) sunfat bị oxy hóa thành sắt (3)
sulfat, một ít axit phenic để chống mực
bị thối, một ít bột màu xanh để
tạo màu cho mực và ít chất keo để làm cho
mực có độ dính.
Sau khi chế tạo, lượng tanin
trong mực xanh đen kết hợp với sắt (2)
sulfat thành tanin sắt (2). Khi dùng mực viết
chữ trên giấy, dưới tác dụng của ánh
sáng mặt trời và oxy của không khí, tanin sắt
(2) biến thành tanin sắt (3). Tanin sắt (3) sẽ tác
dụng với axit galic tạo thành sắt galat.
Hợp chất này bám chặt vào mặt giấy, không
bị hơi ẩm làm nḥe chữ, cũng như không
bị nhạt màu, giúp chữ viết bám lâu dài vào
mặt giấy. Do đặc điểm này, ngày nay
trong các văn kiện chính thức, người ta thường
viết bằng mực xanh đen.
Đương nhiên, v́ tanin sắt (2)
dễ bị ôxy hóa biến thành tanin sắt (3), mà
hợp chất này lại dễ tác dụng với
axit galic tạo kết tủa, nên mực sau khi chế
xong phải được chứa trong b́nh đậy
kín. Nếu không trong đáy mực sẽ có kết
tủa sau một thời gian.
13- Thuỷ tinh có bị ăn ṃn không?
Thuỷ tinh được xem là một
vật liệu kỳ diệu v́ khả năng
chống ăn ṃn cao. Không nói đến nước,
chứ các loại axit rất mạnh như axit
sunfuric, nitric, clohydric, và cả nước cường
toan dùng để hoà tan vàng, thuỷ tinh cũng
"chấp" hết. Có điều, người ta
đă lầm khi nghĩ rằng thuỷ tinh không có
đối thủ.
Các nhà khoa học từng cho rằng
thủy tinh là b́nh đựng vạn năng, và đă
bỏ vào đó axit flohydric. Không lâu sau, các b́nh này
trở nên mờ đi. Tại sao vậy? Th́ ra, axit
flohydic có thể tác dụng với silicat, thành
phần chủ yếu của vật liệu làm b́nh.
Chính nhờ phản ứng này mà người ta
tạo được các dấu chia độ, hoa văn,…
trên các b́nh thuỷ tinh. Axit flohydric tác dụng với
silicat theo phản ứng sau:
CaSiO3 + 6 HF = CaF2 +
SiF4 + 3 H2O
Do đó, thuỷ tinh bị ăn ṃn. Phương
pháp khắc, đánh dấu trang trí theo kiểu này
được gọi là phương pháp khắc
ăn ṃn.
V́ b́nh thuỷ tinh không đựng
được axit flohydric, nên người ta phải t́m
một vật liệu khác, đó là ch́. Nguyên tố
này trơ đối với axit flohydric. Ngày nay,
chất dẻo được thay thế cho ch́ để
làm b́nh đựng v́ nó khắc phục được
tất cả các nhược điểm trên.
14- Tại sao pḥng quan trắc thiên văn thường
có mái tṛn?
|
Đài thiên văn khi đóng cửa
sổ. |
Thông thường mái nhà nếu không
bằng th́ cũng nghiêng, chỉ riêng mái các pḥng quan
trắc của đài thiên văn th́ h́nh tṛn, trông xa
giống như một bánh bao lớn. Phải chăng
họ làm dáng cho nó hay chỉ để trông cho
lạ mắt?
Không phải vậy, bởi mái tṛn có tác
dụng riêng của nó. Nh́n từ xa, nóc đài thiên
văn là một nửa h́nh cầu, nhưng đến
gần sẽ thấy trên nóc mái có một rănh hở
chạy dài từ đỉnh xuống đến mép mái.
Bước vào bên trong pḥng, rănh hở đó là
một cửa sổ lớn nh́n lên trời, ống kính
thiên văn khổng lồ chĩa lên trời qua
cửa sổ lớn này.
Mái h́nh tṛn của đài thiên văn
được thiết kế để chuyên dụng
cho kính thiên văn viễn vọng. Mục tiêu quan
trắc của loại kính này nằm rải rác
khắp bầu trời. V́ thế, nếu thiết
kế như những mái nhà b́nh thường th́
rất khó điều chỉnh ống kính về các
mục tiêu. Trên trần nhà và xung quanh tường, người
ta lắp một số bánh xe và đường ray
chạy bằng điện để điều
khiển nóc nhà di chuyển mọi góc độ,
rất thuận tiện cho người sử dụng.
Bố trí như vậy, dù ống kính thiên văn hướng
về phía nào, chỉ cần điều khiển nóc
nhà chuyển động đưa cửa sổ đến
trước ống kính, ánh sáng sẽ chiếu
tới và người quan sát có thể nh́n thấy
bất cứ mục tiêu nào trên bầu trời.
Khi không sử dụng, người ta đóng cửa sổ
trên nóc nhà để bảo vệ kính thiên văn không bị mưa gió. Đương nhiên,
không phải tất cả các pḥng quan trắc của đài thiên văn đều thiết kế mái
tṛn. Một số pḥng quan trắc chỉ quan sát bầu trời hướng Bắc - Nam nên
chỉ cần thiết kế mái nhà h́nh chữ nhật hoặc h́nh vuông
15- V́ sao ruồi bay có tiếng, nhưng bướm
lại không?
|
Bướm đập cánh rất
chậm, v́ thế không phát ra tiếng kêu. |
Khi ruồi muỗi lượn quanh, từ
xa, bạn đă nghe thấy tiếng “động cơ”
vo vo của chúng. Nhưng bướm th́ dù có ghé sát
tai vào bạn cũng không thể nghe được ǵ
cả. Phải chăng ruồi muỗi có cơ quan
"phát thanh" đặc biệt?
Thật ra, tiếng kêu đó chỉ là
do dao động do cánh gây ra mà thôi. Để
chứng minh vấn đề này, chúng ta hăy làm thí
nghiệm sau: lấy một mảnh tre mỏng rồi
khua lên khua xuống trong không khí. Nếu khua nhẹ,
bạn sẽ không nghe thấy ǵ, nhưng nếu khua
mạnh, sẽ có tiếng vù vù rất rơ.
Âm thanh truyền đến tai ta là do tai
cảm nhận được các dao động trong
không khí. Tuy nhiên, ta chỉ có thể nghe được
những rung động có tần số từ 20 đến
20.000 lần mỗi giây. Nếu thấp hoặc cao hơn
khoảng này chúng ta đều không nghe thấy. Điều
đó giải thích v́ sao mảnh tre khua chậm th́ im
hơi lặng tiếng, nhưng khi khua nhanh sẽ
tạo ra tiếng xé gió vù vù.
Côn trùng khi bay phát ra âm thanh cũng
giống như nguyên lư kể trên. Các nhà khoa học
cho biết, mỗi giây, ruồi nhặng vỗ cánh
từ 147-220 lần, muỗi là 594 lần, thậm chí
có loài c̣n vỗ 1000 lần, ong mật vỗ 260
lần. Nhưng bướm trắng th́ chỉ lập
lờ có... 6 lần, bướm gai 5 lần. Chính v́
thế mà chúng bay hoàn toàn yên lặng.
16- V́ sao chạch lại nhả bọt?
|
Cá chạch sẽ dùng ruột làm cơ
quan hô hấp khi nước thiếu ôxy. |
Ở những ao đầm, mương,
ng̣i có nhiều cá chạch sinh sống, trên mặt nước
thường có nhiều bóng khí. Nếu thả vài
chục con chạch trong thùng nước, th́ chỉ
một lúc sau bọt đă phủ đầy chẳng
c̣n chừa khoảng trống nào cả. Lũ cá làm
sao thế nhỉ?
Th́ ra, đó chỉ là do loài chạch trung
tiện hơi nhiều mà thôi.
Chạch có thân dài, hơi dẹt, cũng
thở bằng mang như các loại cá khác. Nhưng
khi trong nước thiếu dưỡng khí, nếu
chỉ thở bằng mang thôi sẽ không cung cấp
đủ ôxy cho cơ thể. Lúc đó, chạch
sẽ tḥ đầu lên khỏi mặt nước,
trực tiếp hít thở khí trời và dùng ruột
làm cơ quan hô hấp thay thế mang. Mấu chốt
chính là ở đây: Ruột chạch có cấu
tạo khác hẳn so với các loài cá khác.
Nếu như ruột cá b́nh thường
phải cuộn từ 8-10 ṿng trong bụng cá, th́
ruột chạch lại nối thẳng từ cổ
họng đến hậu môn thành một đường
thẳng không gấp khúc và có thể nh́n thấu qua.
Trên thành ruột có nhiều mạch máu nhỏ. Đoạn
ruột vừa thẳng vừa ngắn này có tác
dụng tiêu hóa thức ăn, đồng thời c̣n
hô hấp thay thế mang khi cần thiết.
Khi chạch cảm thấy trong nước
hoặc bùn không đủ ôxy, nó sẽ ngoi đầu
lên khỏi mặt nước (mặt bùn), đớp
một ngụm khí rồi lại lặn xuống.
Không khí được nuốt xuống ruột, các
mạch máu trên thành ruột hấp thụ luôn lượng
khí ôxy trong khoang ruột, chất khí thừa c̣n
lại và lượng khí CO2 do máu thải ra sẽ qua
hậu môn theo h́nh thức trung tiện, đó chính là
những bọt khí xuất hiện trên mặt nước.
Ôxy trong nước càng ít, chạch càng đớp
nhiều lần hơn. Khi trong nước hết ôxy,
chạch ngoi lên khoảng 70 lần mỗi giờ để
duy tŕ sự sống.
17- Xoáy nước xuất hiện như
thế nào?
Nước sông đang chảy xiết, khi
tới trụ cầu th́ bị cản, nên phải
lùi lại sau. Nhưng phía sau lại là ḍng nước
đang cuồn cuộn chảy tới, kéo nó chảy
theo. Như thế, số nước này tiến không
được, lùi cũng không xong, đành chạy
ṿng tṛn ở vùng gần trụ cầu. Vậy là
ở đó xuất hiện xoáy nước.
Trên ḍng sông, xung quanh các cọc gỗ
hay mỏm đá nhô lên khỏi mặt nước cũng
có thể xuất hiện xoáy. Đó là v́ ḍng nước
sau khi bị các vật cản ngăn lại, nó
chỉ có thể đi ṿng ra hai bên. Khi đến
mặt sau vật cản, do ở nơi đó nước
sông chảy chậm, ảnh hưởng đến
sự chảy qua của ḍng nước, thế là nó
lao vào số nước đă ngăn cản sức
chảy của nó và khiến chúng chạy ṿng.
Ở những chỗ ḍng sông lượn
ṿng, gấp khúc cũng dễ xuất hiện xoáy nước.
Do nước sông có xu hướng chảy theo
đường thẳng, v́ vậy ở gần
mặt trong đoạn ṿng, luồng nước đă
“thoát ly” bờ sông để chảy thẳng.
Thế nhưng, luồng nước ở phía ngoài
lại ép luồng nước phía trong phải đi
ṿng qua. Khi luồng nước mặt trong chịu áp
lực của mặt ngoài bị chen bật trở
lại th́ một phần của nó sẽ chảy
bổ sung vào nơi mất nước, và như
vậy đă h́nh thành xoáy nước.
Nếu chú ư bạn có thể thấy,
xoáy nước trên ḍng sông đều xuất
hiện ở những nơi tốc độ và phương
hướng ḍng chảy đột ngột thay đổi.
18- V́ sao ong bắp cày không đốt người
trong mùa thu?
|
Trong một bầy ong, phần
lớn là những con ong thợ (ong cái), có
khả năng đốt người. |
Ong bắp cày đốt rất đau. Nhưng
không phải con nào cũng biết làm việc ấy,
mà chỉ có ong cái thôi. Mùa xuân và mùa hè, lũ ong
cái bay ra khỏi tổ, và bạn rất dễ
trở thành mục tiêu của chúng. Nhưng mùa thu,
đa phần chúng ở nhà, nhường quyền
hoạt động cho các con đực.
Khi đốt người, ong sử
dụng đến một chiếc ng̣i nhọn ở
phần dưới bụng của chúng. Phần
gốc ng̣i gắn liền với tuyến nọc
độc. Hễ chiếc ng̣i nhọn đó cắm
vào đâu là có nọc độc tràn vào. Bởi
vậy khi bị ong đốt, ta có cảm đau
buốt.
Ng̣i ong chính là ṿi đẻ trứng
của chúng biến thành. Do đó, chỉ có ong cái
mới có cơ quan này, c̣n ong đực th́ không.
Tất cả những con ong thợ đều là ong
cái (tuy chúng không sinh nở được). Trong xă
hội loài ong, con cái nhiều hơn con đực, và
các chàng ong rất ít khi bay ra khỏi tổ, nên chúng
ta thường chạm trán loại ong đốt người.
Riêng với ong bắp cày, trong mùa xuân
và mùa hè, ong thợ xuất hiện nhiều ở
ngoài tổ. Đến mùa thu, trời lạnh dần,
con cái ở tổ chuẩn bị chống rét cho mùa
đông. Cũng vào thời điểm này, ong đực
bay đi t́m ong cái để giao phối duy tŕ ṇi
giống. Nên nếu có gặp chúng, bạn sẽ
chẳng hề hấn ǵ cả.
Như vậy, nói ong bắp cày không
đốt người vào mùa thu chẳng qua là
chỉ những con ong đực không có khả năng
đốt người. Cách đơn giản để
phân biệt hai giống là nh́n màu sắc phần
đầu của chúng: ong cái có màu vàng, ong đực
là màu trắng.
19- Loài thằn lằn dùng máu để
tự vệ
|
Thằn lằn phrynosoma. |
Đối diện với kẻ thù, khi
đă ở vào thế tuyệt vọng, loài thằn
lằn có sừng phrynosoma sẽ tự làm tăng
áp suất máu lên đầu. Áp suất tăng nhanh
khiến các mạch máu nhỏ xíu tại vùng giác
mạc bị đứt: Ḍng máu phụt theo các
ống dẫn nước mắt, phun thẳng vào
mặt kẻ thù.
Cũng giống như những loài
thằn lằn b́nh thường khác, loài thằn
lằn có sừng phrynosoma, thuộc họ lguanidae,
sống ở miền tây nước Mỹ, Mexico và
các vùng có khí hậu khô nóng, có khả năng
ngụy trang rất tài t́nh. Khi bị đe dọa,
cách pḥng thủ mà chúng ưa thích nhất là đổi
màu da để ẩn vào môi trường xung quanh.
Không những thế, chúng c̣n cố
gắng hết sức nằm dán xuống mặt đất,
để giảm tối đa nguy cơ bị kẻ
thù phát hiện. Tuy nhiên, khi ngụy trang không c̣n
hiệu quả đối với những kẻ săn
mồi láu cá và lỳ lợm, thằn lằn sẽ
chuyển sang phương án tiếp theo là phát ra
những tiếng x́ x́ đầy đe dọa, đồng
thời cố hết sức gồng cơ thể lên,
giương những chiếc gai nhọn về phía
kẻ thù.
Chiến thuật này khiến nó trở
nên to hơn và khó nuốt hơn. Thế nhưng, trong
trường hợp cả hai phương án trên đều
vô hiệu, nó sẽ viện đến phương
án cuối cùng là phun máu. Khi cảm thấy sự nguy
hiểm tăng lên tột độ, nó sẽ tự
làm tăng áp suất máu lên khu vực đầu
để có thể phun ra theo các ống dẫn nước
mắt. Phương án của kẻ cùng đường
này đôi khi rất hiệu quả, v́ nó làm kẻ
thù phát hoảng mà bỏ chạy.
20- Âm thanh trong phích nước từ đâu
ra?
Ghé sát tai vào phích nước rỗng,
bạn sẽ thấy âm thanh o o như tiếng gió
lùa. Phích kín như vậy th́ gió ở đâu ra
nhỉ. Thực tế, đây chỉ là hiện tượng
cộng hưởng âm thanh b́nh thường, xảy
ra với tất cả các dụng cụ chứa mà
thôi.
Trước hết, ta hăy t́m hiểu
về hiện tượng cộng hưởng âm:
Sóng âm là sự thay đổi mật độ lúc
loăng lúc đặc của không khí, được
truyền đi từ nguồn âm tới mọi hướng
với tốc độ nhất định. Số
lần biến đổi loăng - đặc trong
một giây gọi là tần số. Khoảng cách
giữa hai phần đặc hoặc hai phần loăng
kề nhau gọi là bước sóng. Tần số
của âm thanh càng cao, hoặc là bước sóng càng
ngắn th́ âm điệu nghe được càng cao.
Nói chung, âm thanh là do vật dao dộng
gây ra. Ví như khi đánh trống, do mặt trống
dao động lên xuống nên phát ra âm thanh trong không
khí. Những vật thể khác nhau khi dao động
sẽ phát ra những âm thanh không cùng tần số.
Nếu có hai vật thể phát ra âm thanh
có tần số giống nhau và nằm ở gần
nhau, th́ khi để cho một vật phát âm, vật
kia cũng có thể phát âm theo. Hiện tượng
này gọi là cộng hưởng.
Điều thú
vị là hầu như không khí (hay cột không khí)
trong bất kỳ dụng cụ chứa nào cũng
đều có thể cộng hưởng với các
vật phát âm. Đưa một vật
phát âm tới gần miệng một dụng cụ
chứa, nếu tần số hoặc bước sóng
của nguồn âm phù hợp với tần số
hoặc bước sóng riêng của cột không khí,
th́ cột không khí sẽ cộng hưởng liền
(tức là nó dao động) và làm âm thanh lớn lên
rất nhiều.
Theo các nhà nghiên cứu, chỉ cần bước
sóng bằng 4 lần, hoặc 3/4, 4/5… độ dài
cột không khí, th́ sau khi truyền vào dụng cụ
chứa, nó sẽ gây ra cộng hưởng. Chiều
cao bên trong của phích thường khoảng 30 cm.
Từ đó có thể tính được rằng, khi
những âm thanh có bước sóng là 120 cm, hoặc 40
cm, 24 cm… truyền vào phích th́ đều có thể
gây ra cộng hưởng.
Xung quanh chúng ta có đủ mọi
loại âm thanh to nhỏ. Chúng có thể đồng
thời cộng hưởng với cột không khí
trong phích, tạo thành tiếng o o mà khi ghé tai vào ta
sẽ nghe thấy. Do cột không khí ngắn, nên bước
sóng của những âm thanh được cộng hưởng
cũng ngắn. V́ vậy, những âm o o phát ra từ
một chai nhỏ sẽ nhọn sắc hơn từ
chiếc phích phát ra.
Nếu b́nh chứa có chỗ hư
hỏng khiến cho cột không khí không hoàn chỉnh
th́ âm thanh cộng hưởng cũng bị thay đổi.
Chính v́ thế mà người ta thường thông qua
việc nghe các tiếng o o để kiểm tra xem
phích đựng nước có bị hỏng hay không.
21- V́ sao chuông nứt đánh không kêu?
Cái chuông, khi đă bị nứt rồi,
th́ dù bạn có đánh hết sức b́nh sinh vẫn
chỉ nghe thấy những âm thanh rè rè mà thôi. Đó
là do chỗ bị nứt làm chuông mất đi
sự đối xứng, độ đàn hồi và
dao động riêng, chỗ đó không thể cùng ba
mặt khác dao động đồng bộ, tạo ra
âm thanh.
Chuông hoạt động theo nguyên lư sau:
khi bị ngoại lực đánh vào, dao động
của nó sẽ hướng về hai phía đối
nhau từng đôi một. Chẳng hạn, khi bạn
gơ vào mặt phải, th́ mặt phải và mặt
trái sẽ đồng thời ép vào trong, c̣n mặt
trước và mặt sau th́ dăn ra phía ngoài. Tiếp
đó, hai mặt trái phải lại dăn ra phía ngoài,
đồng thời hai mặt trước sau lại
ép vào phía trong. Chính do dao động của các
mặt chuông không ngừng đan xen nhau, lúc dăn ra phía
ngoài, lúc ép vào phía trong, mà chuông phát ra được
âm thanh du dương rồi yếu dần đi.
Nếu chuông được đúc dày
mỏng không đều th́ dao động của hai
mặt đối xứng sẽ không ḥa nhịp, âm
thanh phát ra không những khó nghe mà thời gian ngân vang
cũng ngắn.
22- Các hành tinh trong vũ trụ liệu có va
vào nhau?
Nếu
trái đất ở rất gần các hành tinh khác và
chúng chuyển động ngược chiều nhau th́
khả năng đụng độ rất dễ
xảy ra. Nhưng thực tế, trái đất và
các hành tinh đều ngoan ngoăn quay trên những
quỹ đạo nhất định khiến cho
chuyện đó là không thể.
Mặt trăng là thiên thể gần
trái đất nhất, cách chúng ta 384.000 km. Khoảng
cách giữa mặt trời và trái đất là 149,6
triệu km (hăy tưởng tượng muốn đi
bộ tới quả cầu lửa này, bạn
phải mất hơn 3.400 năm). Các hành tinh khác trong
hệ mặt trời cũng ở rất xa, và
bởi chịu sức hút của mặt trời nên
chúng đều có một quỹ đạo ổn
định. Do đó chúng không có cơ hội đụng
độ với hành tinh xanh.
Các ngôi sao khác trong vũ trụ cách trái
đất c̣n xa hơn nữa. Sao Biling là gần
nhất, cách trái đất 4,22 năm ánh sáng, tức
là từ v́ tinh tú này tới trái đất, ánh sáng
phải “́ ạch” mất 4 năm 3 tháng.
Trong khoảng không vũ trụ gần
hệ mặt trời, trung b́nh các sao cách nhau
khoảng trên 10 năm ánh sáng. Hơn nữa, chúng
đều chuyển động theo một quy luật
nhất định. Mặt trời cũng như
tất cả các sao trong dải Ngân Hà đều
chuyển động xung quanh trung tâm hệ theo một
quy luật riêng chứ không phải là hỗn
loạn. Bởi vậy, rất ít khả năng các
sao trong dải Ngân Hà va chạm nhau.
Theo tính toán của các nhà khoa học,
trong hệ Ngân Hà trung b́nh khoảng một tỷ
tỷ năm mới xảy ra một va chạm
giữa các sao. Tuy nhiên, xác suất các sao chổi va
quyệt vào hành tinh th́ thường xuyên hơn
nhiều.
23- Cách phân biệt một số loại tên
lửa
Theo
thống kê, hiện trên thế giới có gần 600
loại tên lửa có tính năng, công dụng khác
nhau. Dựa trên sự khác nhau của căn cứ
phóng tên lửa và vị trí mục tiêu tấn công,
có thể chia tên lửa thành mấy loại sau.
1. Tên lửa không
đối không: Là
loại tên lửa được gắn trên máy bay
tiêm kích, tiêm kích ném bom và máy bay trực thăng vũ
trang, dùng để tấn công
các mục tiêu bay. Người ta phân
loại tên lửa theo tầm bắn gồm tên
lửa ngăn chặn ở cự ly xa (100-200 km), tên
lửa ngăn chặn ở cự ly trung b́nh (40-100
km), tên lửa đánh chặn ở cự ly gần
(8-30 km), tên lửa tấn công hạng nhẹ (5-10
km)... Phương thức dẫn đường
của các loại tên lửa này thường là
sử dụng tia hồng ngoại, radar bán tự động,
radar tự động hoàn toàn..., xác suất bắn
trúng thường đạt trên 80%.
2. Tên lửa không
đối đất và tên lửa không đối
hạm: Là loại vũ khí trang bị cho
máy bay, được trang bị trên các máy bay tác
chiến hiện đại, như máy bay ném bom, máy
bay tiêm kích ném bom, máy bay cường kích, máy bay
trực thăng vũ trang và máy bay tuần tra
chống ngầm. Loại này được dùng để
tấn công các mục tiêu trên
mặt đất, trên mặt biển hoặc tàu
ngầm chạy dưới nước.
Bộ phận đầu nổ của
các loại tên lửa này đa phần sử dụng
thuốc nổ thường, một số ít cũng
sử dụng đầu đạn hạt nhân cỡ
nhỏ, tầm bắn từ 6 đến 60 km, lớn
nhất có thể đạt tới 450 km. Phương
thức dẫn đường của tên lửa không
đối đất khá phong phú, như: sử
dụng tia hồng ngoại, tia lade, sợi quang, vô
tuyến truyền h́nh, radar sóng milimet và ảnh
hồng ngoại.
3. Tên lửa đất
đối đất, tên lửa đất đối
hạm, tên lửa hạm đối hạm:
Tên lửa đất đối đất được
phóng đi từ đất liền, dùng để
tấn công các mục tiêu trên đất liền, như
nơi đóng quân, đoàn xe
bọc thép, sở chỉ huy mặt đất,
trận địa pḥng không, sân bay, kho tàng, nhất
là xe tăng... Căn cứ theo tầm
bắn, tên lửa được phân loại thành
loại tầm xa (từ 100 km trở lên), tầm trung
(30-100 km), tầm gần (4-30 km), sử dụng
nhiều phương thức dẫn hướng như
bằng tia hồng ngoại, tia lade, sợi quang và radar
bán tự động...
Tên lửa hạm đối hạm
được phân loại theo tầm bắn gồm
tầm xa (200-500 km), tầm trung (40-200 km), tầm
gần (dưới 40 km). Tên lửa hạm đối
hạm áp dụng hai phương thức là dẫn
bằng radar tự động và radar bán tự động.
Chúng thường bay với tốc độ dưới
âm thanh, một số ít có tốc độ siêu âm.
4. Tên lửa đối
không (bao gồm tên lửa đất đối
không và tên lửa hạm đối không) có thể đánh
chặn máy bay và địch tập kích, tên lửa
hành tŕnh, tên lửa không đối đất, đất
đối đất trên đường bay.
Tầm bắn cũng được chia thành 3
loại bao gồm: tầm xa (từ 100 km trở lên),
tầm trung (30-100 km), tầm thấp, rất thấp
(4-30 km). Phương thức dẫn của loại tên
lửa này phần lớn là sử dụng radar bán
tự động, vô tuyến điện, tia hồng
ngoại và tia lade...
Nh́n chung, tên lửa loại nào có ưu điểm
của loại đó, phát huy được bản lĩnh riêng trên các chiến trường khác
nhau
24- Viên đạn và tiếng nổ, cái ǵ
chạy nhanh hơn?
|
Đường bay của viên đạn
siêu thanh. |
Tốc độ viên đạn khi đi
ra khỏi ṇng súng là 900 mét/giây, âm thanh ở
nhiệt độ b́nh thường có tốc độ
truyền đi là 340 mét /giây. Viên đạn bay nhanh
gấp 2 lần âm thanh, v́ vậy, phải chăng là
viên đạn bay nhanh hơn?
Không hẳn như thế. Bởi v́ trong
quá tŕnh bay viên đạn không ngừng ma sát với
không khí, tốc độ của nó ngày càng chậm,
c̣n tốc độ của âm thanh trong không khí trên
một đoạn đường không quá dài th́ thay
đổi rất ít. Như vậy, muốn biết
cái ǵ chạy nhanh hơn, ta hăy xem cuộc chạy
đua giữa chúng.
Ở giai đoạn thứ nhất, 600
mét sau khi viên đạn rời khỏi ṇng súng,
tốc độ bay trung b́nh của đạn là
khoảng 450 mét/giây. Viên đạn bay nhanh hơn âm
thanh nhiều, luôn luôn đi trước. Ở
khoảng cách này, nếu nghe thấy tiếng súng th́
viên đạn đă bay qua bạn từ lâu về
phía trước rồi.
Giai đoạn thứ hai, trong khoảng
từ 600 đến 900 mét, sức cản của không
khí đă làm cho tốc độ của viên đạn
giảm đi rất nhiều, âm thanh dần đuổi
kịp nó, hai bên hầu như kề vai nhau chạy
tới đích 900 mét.
Giai đoạn thứ ba, từ 900 mét
trở đi, viên đạn càng bay càng chậm, âm
thanh sẽ vượt nó. Đến chỗ 1.200 mét
th́ viên đạn đă mệt tới mức sức
cùng lực kiệt, không thể bay nổi nữa, âm
thanh sẽ chạy xa lên phía trước. Lúc này,
nếu bạn nghe thấy tiếng súng và tiếng vèo
vèo th́ viên đạn c̣n chưa tới trước
mặt bạn.
Kết quả cuộc thi là viên đạn
chỉ giành chức quán quân trong phạm vi 900 mét
đầu tiên mà thôi.
25- Mắt thú ăn thịt khác mắt thú
ăn cỏ như thế nào?
Nếu để ư, bạn sẽ nhận
thấy một hiện tượng rất thú vị.
Với các loài thú ăn thịt như sư tử,
hổ, báo, chó sói…, mắt của chúng đều
nằm phía trước phần mặt, c̣n vị trí
mắt của các loài thú ăn cỏ như trâu,
ngựa, dê… lại ở hai bên.
Đây có phải là sự trùng hợp
ngẫu nhiên? Không phải, điều này có liên quan
mật thiết với phương thức sinh
sống của chúng.
Các loài ăn thịt trong tự nhiên
đều là những kẻ tấn công chủ động,
tích cực. Một khi đă phát hiện thấy con
mồi, chúng sẽ nhanh chóng truy đuổi. Trong quá
tŕnh này, chúng không những cần cơ đùi
khỏe, một cái miệng rộng với hàm răng
sắc nhọn, mà c̣n phải dùng đến đôi
mắt để quan sát chăm chú mục tiêu, ước
lượng chính xác khoảng cách. Chính v́ thế,
mắt ở phía trước mặt sẽ tạo
thuận lợi cho quá tŕnh săn đuổi này.
Các loài động vật ăn cỏ
lại không giống như vậy. Số phận
của chúng là dễ trở thành mồi ngon cho các
loài ăn thịt bất cứ lúc nào. V́ thế,
mắt hai bên sẽ tạo ra tầm nh́n rộng răi
(có con có tầm nh́n tới 360 độ), giúp chúng
nhanh chóng phát hiện ra kẻ địch và chạy
trốn.
Vượn và khỉ tuy không hung dữ
như các loài thú ăn thịt, nhưng cũng có
mắt mọc ở chính trước mặt. Đó
là v́ cấu trúc này có lợi cho chúng trong việc
xác định khoảng cách giữa các cành cây.
Từ đó, chúng có thể nhanh chóng lẩn tránh
kẻ thù.
Gấu trúc tuy ăn tre, trúc nhưng
lại có đôi mắt mọc ở phía trước.
Đặc điểm này là do chúng thừa kế
được từ tổ tiên - những động
vật chuyên ăn thịt.
26- Chuyện lạ của âm thanh
|
Beethoven, nhạc sĩ thiên tài người
Đức bị điếc. |
Khi nhai kẹo gịn, ta nghe thấy những
tiếng động inh ỏi trong tai, trong khi những
người ngồi bên cạnh cũng đang nhai
thứ kẹo ấy mà lại chẳng phát ra âm thanh
ǵ rơ rệt. Họ đă dùng mẹo ǵ để
tránh được thứ âm thanh lốp cốp vô
duyên đó?
Nguyên do là, những tiếng động
ầm ầm ấy chỉ có tai ḿnh mới nghe
thấy thôi, c̣n những người ngồi cạnh
không nghe thấy được. Xương sọ
của chúng ta cũng giống như hết thảy
những vật rắn đàn hồi khác, truyền
âm rất tốt. Những tiếng vỡ gịn tan
của kẹo khi truyền qua không khí đến tai
th́ chỉ c̣n là những tiếng động nhẹ.
Nhưng cũng tiếng vỡ ấy, nếu truyền
đến thần kinh thính giác qua những xương
cứng ở sọ, th́ sẽ biến thành tiếng
động ầm ầm.
Và đây là một thí nghiệm cùng
tính chất như vậy: bạn hăy ngậm một
chiếc đồng hồ quả quưt vào giữa hai
hàm răng, rồi lấy ngón tay bịt chặt hai
lỗ tai, bạn sẽ nghe thấy những tiếng
động rất mạnh - tiếng tích tắc
của đồng hồ đă được tăng
cường lên như thế đấy.
Beethoven, nhạc sĩ thiên tài người
Đức, sau khi bị điếc đă dùng một
cái gậy để nghe trong lúc chơi dương
cầm: ông chống một đầu gậy vào dương
cầm, c̣n một đầu kia th́ lấy răng
cắn lấy. Có rất nhiều người điếc
nhưng thính giác bên trong c̣n hoàn chỉnh, tới
mức họ vẫn có thể nhảy theo điệu
nhạc. Đó là nhờ âm truyền tới thần
kinh thính giác qua sàn nhà và xương.
27- V́ sao bốn mùa trong năm không dài như
nhau?
Mỗi mùa trong năm không phải tṛn
trịa bằng số ngày một năm chia cho 4, mà
được căn theo thời tiết phục
vụ nhà nông. V́ thế, nó chẳng liên quan ǵ đến
phép chia đều.
Mùa xuân bắt đầu từ ngày Xuân
phân (23/1) đến Hạ chí (21/6) tức là
khoảng 92 ngày 19 giờ. Mùa hè bắt đầu
từ Hạ chí đến Thu phân (23/9) dài khoảng
93 ngày 15 giờ. Mùa thu kéo dài từ Thu phân tới
Đông chí (22/12) dài khoảng 89 ngày 19 giờ. Mùa
đông từ Đông chí tới Xuân phân chỉ dài
có 89 ngày. Như vậy mùa hè dài hơn mùa đông
những 4 ngày 15 tiếng.
|
H́nh mô phỏng chuyển động
của trái đất trong một năm quanh
mặt trời. |
Vấn đề ngắn dài này hoàn toàn
liên quan đến khoảng cách giữa trái đất
với mặt trời ở mỗi thời điểm
xa hay gần. Ta biết rằng trái đất quay xung
quanh mặt trời theo quỹ đạo h́nh bầu
dục, mà mặt trời không phải là tâm điểm
của h́nh bầu dục đó, mà chỉ là một
tiêu điểm trong h́nh bầu dục thôi. Như
vậy, khi trái đất quay trên quỹ đạo,
sẽ có lúc nó gần mặt trời hơn, có lúc
cách xa hơn.
Mùa hạ, khi trái đất ở xa
mặt trời nhất, sức hút của mặt
trời đối với nó là yếu nhất, do
đó trái đất quay chậm nhất, và thời
gian của mùa hè dài nhất trong một năm. Ngược
lại, mùa đông, khi trái đất ở gần
mặt trời nhất, sức hút của mặt
trời tác động lên nó mạnh nhất, do đó
trái đất quay nhanh hơn lúc nào hết, và đó
là mùa ngắn nhất trong năm. Tương tự như
vậy có thể xét cho mùa xuân và mùa thu, là hai mùa
trung gian.
28- V́ sao chim cánh cụt có thể sống
ở Nam cực?
|
Cánh cụt Hoàng đế chỉ
sống trên lục địa Nam cực. |
Môi trường cực kỳ khắc
nghiệt ở Nam cực đă buộc các sinh vật
bậc cao rút lui khỏi lănh địa của nó. Ngay
cả các động vật lớn có thể chịu
được cái rét - 80 độ C của Bắc
cực như gấu trắng, voi biển... cũng
không hề có mặt ở cực Nam. Vậy mà chim
cánh cụt lại có thể làm được điều
đó.
Để hiểu v́ sao, chúng ta phải
xem lại “gia phả” của chúng. Trước
hết, cánh cụt là một loài chim bơi ở dưới
nước cổ xưa nhất. Có thể nó đă
đến đây định cư từ trước
khi châu Nam cực mặc "áo giáp băng". Do
diện tích đất liền hẹp, mặt biển
rộng, nên nơi đây có thể coi là khu vực
phồn thịnh nhất trong các thủy vực,
với nguồn thức ăn phong phú, trở thành
vùng đất tốt cho cánh cụt trú ngụ.
Sau nữa, do kết quả tôi luyện
trong gió và băo tuyết qua hàng ngàn vạn năm, lông
trên toàn thân của cánh cụt đă biến thành
lớp lớp dạng vảy gắn chặt. Với
loại “chăn lông” đặc biệt này, nước
biển không những khó thẩm thấu, mà dù cho
nhiệt độ có xuống tới -100 độ C,
chim cũng không hề hấn ǵ. Đồng thời,
lớp mỡ dưới da của nó rất dày, nên
càng đảm bảo giữ nhiệt cho cơ
thể.
Thêm nữa, châu Nam cực không có thú
ăn thịt, thế là cánh cụt đă có
được một mảnh đất khá an toàn.
Chẳng thế mà khi các nhà nghiên cứu đặt
chân lên mảnh đất tận cùng thế giới
này, chim cánh cụt không những không bỏ chạy,
mà c̣n đón tiếp họ với thái độ
rất thân mật (và ṭ ṃ).
29- Động vật trút giận như
thế nào?
|
Đang "choảng" nhau, kangaru cũng
có thể nghỉ giữa hiệp để...
chải lông. |
Ăn miếng trả miếng, đó là
phản ứng thường gặp khi xung đột
giữa hai con vật xảy ra. Song có khi, chúng lại
đưa ra một số động tác kỳ
quặc, chuyển "cục giận" trong ḷng sang
kẻ thứ ba chẳng may đứng gần đó.
Sinh vật học gọi hành vi không liên
quan đến mục tiêu của động vật
là “sự đùn đẩy trách nhiệm”.
Chẳng hạn, ở một vài loài hải âu, khi hai
con bị kích thích tấn công lẫn nhau, một con
trong đó sẽ chuyển sang tấn công mục tiêu
bên cạnh ḿnh. Chưa hả giận, nó c̣n mổ...
cỏ một cách rất tức tối.
Chim công ở Australia khi yêu đương
hoặc khi tranh đấu sẽ xuất hiện
những động tác chẳng có ǵ dính dáng, như
chải lông, vươn vai, lắc ḿnh, găi găi đầu,
ngáp, ngủ gật, lấy thức ăn hay xây
tổ. C̣n trong những cuộc giao chiến giữa
hai con kanguru, đôi khi, chúng đột ngột
dừng lại, "nghỉ một tí", bằng
cách ra vẻ chải chải lông trên người.
Một con mèo đang mải tấn công
mồi, đột ngột nó có thể chững
lại để... liếm cơ thể. Một con cá
hung hăn đang dọa nạt các loài cá khác cũng có
thể bất chợt dùng miệng để đào
cát, hoặc trong lúc tuyệt vọng nó sẽ mở
to mồm… Vậy khi bắt gặp những t́nh
huống này, bạn cũng đừng lấy làm
lạ, v́ tập tính thay đổi hành vi có ở
hầu hết các loài động vật.
30- V́ sao con hà khoét thủng được
cả đá?
|
Hà phá hủy các tảng đá, thân
tàu. |
Trên các băi biển, có những tảng
đá lỗ chỗ như tổ ong do hà bám. Chúng làm
thế nào để có thể phá hủy được
loại vật chất cứng rắn này, trong khi
không hề có răng? Th́ ra, con hà tiết ra một
chất dịch có tính axit cao, làm cho đá mềm ra.
Sau đó, chúng dùng chân và ṿi làm điểm
tựa rồi xoay xoay toàn thân để cho những
gai trên vỏ cứng của chúng cọ xát vào đá
và làm đá vỡ vụn. Chúng cứ kiên nhẫn
đào khoét suốt đời và tạo ra các hang
động trên đá. Nếu không có đá để
đục lỗ, loài hà này sẽ chết. Các nhà
khoa học đă nuôi thử chúng trong các bể nước
không có đá. Mặc dù được cung cấp
đầy đủ thức ăn, hà vẫn không
lớn được, vỏ trước bị khép
lại, chân co vào và c̣m cơi đến chết.
Hà đá không chỉ đào hốc trên
đá mà c̣n đục khoét ngay trên vỏ ngoài
của các loài trai, hàu. Trên một vỏ hàu có
thể t́m thấy khoảng mươi con hà đá,
trông như những điếu x́ gà nằm gọn
trong các hốc nhỏ do chúng tạo ra. Hà sống
trên đá lại có h́nh dạng như quả
trứng nhọn đầu. Chúng sinh sôi nảy nở
rất nhanh và làm các công tŕnh xây dựng ở các
hải cảng bị đục khoét lỗ chỗ như
tổ ong.
Hà đá chỉ chịu thua đá hoa cương.
Chính v́ vậy mà người ta phải phủ đá
hoa cương lên mặt ngoài các công tŕnh xây
dựng ở hải cảng, ở các vùng khai thác
dầu khí ven biển.
31- V́ sao máu của động vật
bậc thấp không có màu đỏ?
|
Máu của tôm và nhiều động
vật bậc thấp khác không có màu đỏ. |
Quan niệm rằng cứ máu là đỏ
đă ăn sâu vào chúng ta đến mức, ta không
nhận ra rằng c̣n có những loài máu trong như nước,
nhờ nhờ vàng hoặc hơi xanh. Nhưng nếu
để ư, bạn sẽ thấy chỉ có động
vật bậc thấp mới có màu máu kỳ lạ
như vậy thôi.
Đó là v́ máu người và động
vật bậc cao đều có hồng cầu,
chứa huyết sắc tố, c̣n động vật
bậc thấp th́ không.
Nếu đưa máu người và động
vật bậc cao vào máy ly tâm rồi cho quay thật
nhanh, nó sẽ tách thành 3 phần rơ rệt. Tầng
trên cùng có màu vàng, khá trong, được gọi là
huyết tương (chiếm khoảng 55% thể tích
chung của máu). Tầng giữa là một lớp
mỏng, màu trắng, gồm các tế bào bạch
cầu và một số thành phần khác của máu. Dưới
cùng là các tế bào hồng cầu có màu đỏ tươi
(chiếm khoảng 40-50%). Hồng cầu sở dĩ
có màu đỏ là v́ trong thành phần của nó có
chứa sắt, được gọi là huyết
sắc tố.
Đối với động vật
bậc thấp như tôm, cua, chuồn chuồn,
nhện… th́ khác. Máu của chúng chỉ có các
tế bào trông giống như bạch cầu ở
động vật bậc cao, chứ không chứa các
tế bào hồng cầu. V́ thế, máu không có màu
đỏ. Một số loài động vật
bậc thấp khác (như giun đất, tằm
cát…) cũng có máu đỏ, nhưng là do trong
huyết tương của chúng có chứa huyết
sắc tố (chứ không phải do có hồng
cầu).
Một số loài côn trùng khác lại có
máu màu vàng hoặc màu xanh lục. Đó là bởi
trong huyết tương của chúng có chứa
một loại huyết tố có chứa kim loại
đồng. Đa số các loài động vật
bậc thấp có máu không màu và trong suốt. Các nhà
khoa học không gọi đó là máu, mà chỉ coi là
một dịch thể.
32- V́ sao cá nổi lên ch́m xuống dễ
dàng?
|
Cấu tạo cơ thể đầu
nhọn, đuôi thon giúp cá giảm ma sát với
nước khi bơi. |
Dù có là một tay bơi lặn cừ
khôi đi nữa, bạn cũng không thể đang
từ dưới sâu vọt lên mặt nước,
hoặc ngược lại. Nhưng các loài cá th́ có
thể. Đó là v́ chúng có chiếc bong bóng trong
bụng luôn chứa đầy không khí. Sự thay
đổi áp suất của bong bóng giúp chúng điều
chỉnh vị trí dễ dàng.
Không khí được nạp vào bong
bóng theo hai con đường: hoặc là cá nổi
lên mặt nước, lấy không khí trực
tiếp qua đường khí quản rất nhỏ
ở đầu, hoặc chúng lấy không khí ngay trong
nước qua các tế bào đỏ ở mang.
Các loài cá điều chỉnh vị trí
trong nước chủ yếu nhờ vào việc làm
thay đổi áp suất không khí trong bong bóng (khi
muốn nổi lên, nó nạp đầy không khí vào,
muốn lặn xuống, nó lại nhả ra). Đồng
thời với việc này, cá cũng sử dụng
các động tác quẫy đuôi rất mạnh,
cộng với việc đớp đầy một lượng
nước vào miệng rồi nhả qua hai mang,
tạo thành một lực phản lực đẩy
nó bơi lên hoặc lặn xuống rất nhanh chóng.
Ở từng độ sâu khác nhau, cá
điều chỉnh dung lượng không khí trong bong
bóng để cân bằng tỉ trọng của cơ
thể với mật độ của nước,
nhằm giữ thăng bằng. Tất nhiên những
chiếc vây cũng có tác dụng quan trọng trong
động tác giữ thăng bằng của cá: vây lưng,
vây bụng, vây ngực và vây hậu môn giúp cho cá
không bị ngả nghiêng.
33- V́ sao ban ngày không nh́n thấy sao?
|
Nếu trái đất không có
bầu khí quyển, chúng ta sẽ quan sát
được các v́ sao rơ nét cả ngày và
đêm. |
Trong vũ trụ, tuyệt đại đa
số các sao tự phát sáng và phát nhiệt, quanh năm
lấp lánh. Nhưng chỉ vào xẩm tối chúng ta
mới trông rơ chúng, đó là v́ ban ngày tầng khí
quyển của trái đất đă tán xạ
một phần ánh sáng mặt trời...
Lượng ánh sáng đó chiếu sáng
bừng không trung, át cả ánh sáng của các v́ sao,
khiến chúng ta không thể nh́n thấy chúng. Nhưng
nếu trái đất không có bầu khí quyển,
không trung sẽ tối đen, và cho dù ánh mặt
trời rất sáng th́ chúng ta vẫn nh́n thấy sao
vào ban ngày (hiện tượng này cũng xảy ra
khi chúng ta đứng trên bề mặt mặt trăng.
Do không có bầu khí quyển tán xạ ánh sáng, nên
tại đây, lúc nào chúng ta cũng có cơ hội
chiêm ngưỡng các v́ sao).
Tuy nhiên, ngay cả ở trên trái đất,
bạn vẫn có thể trông thấy các v́ sao vào ban
ngày, nhờ một chiếc kính viễn vọng. Đó
là do hai nguyên nhân: Một là, thành ống kính viễn
vọng đă che khuất khá nhiều ánh sáng mặt
trời bị tán xạ trong khí quyển, tạo ra
một “đêm tối nhỏ” trong ḷng kính. Hai là,
kính viễn vọng có tác dụng khuyếch đại
độ sáng của các v́ sao, và chúng hiện ra
rất rơ.
Tất nhiên, dùng kính viễn vọng quan
sát các sao vào ban ngày có hiệu quả kém hơn so
với ban đêm, v́ khi đó, ta khó có thể nh́n
thấy những sao mờ nhạt.
34- Tại sao tàu vũ trụ được
phóng theo chiều quay của trái đất?
|
Đa số các sân bay vũ trụ
được đặt gần xích đạo
để lợi dụng lực quay của trái
đất. |
Các vận động viên muốn nhảy
xa phải lấy đà, muốn ném lao cũng lấy
đà. Đó là sự lợi dụng lực quán
tính. Lực quán tính đă giúp vận động
viên hay cây lao, bay xa hơn. Khi phóng tên lửa thuận
theo hướng quay của trái đất, chính là
chúng ta đă mượn thêm lực quán tính này.
Ai cũng biết trái đất tự
quay quanh ḿnh nó theo chiều từ Tây sang Đông. Nhưng
trái đất quay với tốc độ nhanh bao
nhiêu, và tên lửa có thể mượn được
bao nhiêu lực tự quay này?
Thực tế, không phải mọi điểm
trên trái đất đều quay với tốc độ
như nhau. Càng gần Bắc cực và Nam cực,
tốc độ quay càng chậm. Càng gần xích
đạo, tốc độ quay càng lớn (H́nh tượng
này giống như chiếc đĩa hát quay trên máy
quay đĩa. Cùng một ṿng quay, nhưng các điểm
ở ŕa đĩa hát đi được một
đoạn đường dài hơn so với các
điểm ở tâm đĩa). Trung tâm Bắc và Nam
cực quay với tốc độ gần bằng
không. Nhưng ở vùng xích đạo, tốc độ
này lên tới 465 mét/giây. Bởi vậy, trừ hai khu
vực ở trung tâm Bắc cực và Nam cực, c̣n
tại hầu hết các điểm khác, con người
đều có thể lợi dụng lực quay của
trái đất.
Khi tàu vũ trụ phóng lên ở vùng
xích đạo, vận tốc của nó sẽ
được cộng thêm vận tốc quay của
trái đất (tức là 465 mét/giây). Và do vậy, dù
lực phóng ban đầu của tàu có yếu hơn
một chút, nó vẫn dễ dàng thắng được
sức hút trái đất. Tuy nhiên càng lên các vĩ
độ cao (gần hai cực hơn), tốc độ
quay của trái đất càng chậm, do đó tên
lửa càng ít lợi dụng được lực
quay này.
35- Tại sao đại đa số cá có lưng
đen, bụng trắng?
|
Cá mập với cái bụng
trắng và lưng đen. |
Nếu như phải miêu tả đặc
trưng của loài cá, nhiều người sẽ không
do dự mà rằng: cá sống ở trong nước,
bơi giỏi, trên thân có vảy, vây… Nhưng loài cá
c̣n có một đặc điểm quan trọng mà ít
được để ư tới, đó chính là màu
sắc bên ngoài cơ thể chúng.
Ngoài một số loài cá nhiệt đới
có màu sắc sặc sỡ, đại đa số cá
có da ở lưng sẫm hơn rất nhiều so
với phần bụng. Các loài cá nước ngọt
như mè, chép, trắm đen…, đều có phần
lưng màu xám đen. C̣n lưng của những loài
sống ở biển như cá mập, cá thoi… th́
thậm chí đen tuyền. Ngoài ra, bất kể là cá
nước ngọt hay là cá nước mặn,
phần bụng hầu như đều là màu
trắng hoặc màu xám nhạt.
Tại sao phần bụng và phần lưng
của cá lại có sự khác biệt lớn như
vậy? Khác biệt này có ư nghĩa ǵ với sự
sinh tồn của chúng? Nguyên do là cá sinh sống
ở trong nước, khi bơi thường là lưng
hướng lên trên, bụng úp xuống dưới.
Khi có ánh sáng mặt trời, từ dưới nước
nh́n lên th́ mặt nước là một mảng sáng
loáng, rất giống với màu trắng của
bụng cá. Do đó, những con cá lớn ở dưới
sâu rất khó phát hiện ra con mồi. Cũng với
quy luật như vậy, từ trên nh́n xuống, màu
sắc của nước rất thẫm, gần
giống với màu sắc của lưng cá, các loài
chim săn mồi khó có thể nh́n thấy cá bơi
trên mặt nước.
Tóm lại, màu sắc lưng thẫm,
bụng nhạt của đại đa số các loài
cá là kết quả của sự thích nghi với
cuộc sống trong nước, bảo vệ bản
thân khỏi bị kẻ địch phát hiện.
36- V́ sao lá cây súng vua có thể đỡ
được một người?
|
Lá cây súng vua. |
Nếu bảo rằng có một loài cây mà
1 chiếc lá của nó có thể đỡ được
sức nặng của một người, hẳn
bạn sẽ lắc đầu không tin. Nhưng
quả thật có một loài cây như thế. Tên nó
là súng vua, sống ở Vân Nam, Trung Quốc.
Súng vua sinh trưởng trong ao hồ. Lá
cây súng vua có đường kính trên 2 m, có khi trên 3
m, nổi trên mặt nước chẳng khác ǵ
chiếc mâm ngọc khổng lồ. Chiếc lá này có
thể chở một người nặng 75 kg mà không
ch́m. Sức mạnh của nó chính là do cấu
tạo đặc biệt của mặt dưới lá.
Nếu lật ngửa lên để quan sát, ta sẽ
thấy một kiểu cấu trúc đặc biệt:
gân lá vừa to vừa khỏe, đồng thời
xếp như kiểu xương sườn, rất
giống cấu trúc dầm cầu thép, cho nên khả
năng chịu lực đặc biệt lớn. Cây súng
vua có nguồn gốc ở Amazon, Nam Mỹ.
Tháng 8 hàng năm, nụ hoa nhô lên
khỏi mặt nước, bắt đầu nở.
Bạn hăy tưởng tượng h́nh dáng hoa
giống hệt với hoa súng thông thường, nhưng
được "phóng đại" lên nhiều
lần, chỉ riêng gai lông trên cuống hoa đă to như
cái đinh.
Thời gian hoa nở rất ngắn,
chỉ trong 2 ngày. Buổi tối ngày thứ nhất,
khi mới nở hoa có màu trắng, tỏa mùi thơm
như hoa bạch lan. Sáng ngày thứ hai, cánh hoa khép
lại, chập tối lại nở ra, khi ấy hoa
từ màu trắng chuyển dần sang màu hồng
nhạt đến đỏ sẫm.
37- Loài hoa chuyên “đánh” côn trùng
|
Hoa tiểu bá. |
Cây dâu để cho tằm ăn lá mà không
than nửa lời. Cây sồi cũng chịu để
con người đốn trong im lặng… Vậy có
khi nào thực vật giữ thế chủ động
không? Có đấy, cây hoa tiểu bá sẽ giương
nhị đực lên và thẳng cánh “choảng” côn
trùng khi cần thiết.
Hăy quan sát hoa tiểu bá (berberis
amurensis) khi nở, nếu bạn lấy đầu
bút ch́ đụng vào cuống nhị đực
của nó, khi ấy, hoa tưởng là côn trùng đến,
lập tức giương bao phấn ra đánh.
Giải thích như thế nào về hiện tượng
này?
Hoa của cây Berberis có
đường kính chỉ khoảng 1-2 cm. Trên mỗi
bông có cả nhị đực và nhụy cái. Ở
cuống mỗi cánh hoa đều có một cặp
tuyến mật. Khi hoa nở, 6 chiếc nhị đực
dính sát vào mặt trong cánh hoa, ở giữa là
một nhụy cái. Khi côn trùng lấy mật,
những nhị hoa bị đụng chạm sẽ
bật vào giữa như những chiếc roi, phấn
hoa trong túi phấn lúc đó được rắc lên
cơ thể côn trùng. Do mỗi bông hoa có 6 tuyến
mật nên trong quá tŕnh làm việc, côn trùng thường
bị “quất” liên tiếp, cho đến khi hút
hết mật th́ đă khoác một bộ áo phấn
hoa mới vui vẻ ra đi. Tới bông hoa thứ hai,
phấn hoa trên cơ thể côn trùng sẽ dính vào ṿi
nhụy, nhờ đó việc thụ phấn giữa
các bông hoa khác nhau được thực hiện.
Sự vận động nhạy cảm
của nhị đực vốn không phải có ác ư,
mà là một kiểu thích ứng để truyền
phấn giữa các bông hoa khác nhau. Qua đó, hạt
giống cây Berbesis amurensis có sức sống khá mănh
liệt.
38- V́ sao thân cây h́nh trụ?
Môn h́nh học mách bảo chúng ta rằng
diện tích của h́nh tṛn lớn hơn bất
kỳ h́nh nào khác. Do đó, cùng một lượng
nhiên liệu như nhau, muốn tạo thành đồ
vật có dung tích lớn nhất hoặc có sức
chứa nhiều nhất th́ hiển nhiên phải
tạo thành h́nh tṛn là thích hợp hơn cả.
Chẳng có ǵ lạ khi người ta làm
ống khói, ống dẫn nước đều là
ống tṛn. Trên thực tế đó là một
kiểu bắt chước hiện tượng tự
nhiên (phỏng sinh học).
Thứ hai là h́nh trụ tṛn chịu
lực tốt nhất. Trọng lượng của tán
cây to tṛn đều nhờ vào sự chống giữ
của thân cây. Có những loài cây sai trái, đến
mùa trên cây c̣n treo nặng hàng tạ quả, nếu
không có cành thân khỏe chống giữ, làm sao có
thể tồn tại được.
Hơn nữa, thân cây h́nh trụ tṛn c̣n
có lợi cho việc pḥng chống tác hại từ bên
ngoài. Nếu h́nh vuông hoặc h́nh chữ nhật, thân
cây ắt sẽ có các góc cạnh, dễ làm mồi
cho động vật gặm nhấm.
Ngoài ra, cây thân gỗ là cây lâu năm,
trong đời nó khó tránh khỏi bị gió băo
tấn công. Do thân cây h́nh trụ tṛn, cho nên dù gió
lớn đến từ phía nào cũng dễ dàng lướt
qua bề mặt, chỉ phải chịu một
lực nhỏ mà thôi.
Mọi sinh vật đều tiến lên
phía trước trên bậc thang tiến hóa. H́nh
trụ tṛn của thân cây chính là kết quả hoàn
hảo của sự thích nghi đó.
39- V́ sao cây trên núi thấp hơn cây ở
đồng bằng?
|
Cây trên núi thường kém phát
triển hơn ở đồng bằng. |
Trên núi cao, cây cối phong phú không kém ǵ
đồng bằng, nhưng để ư bạn sẽ
thấy, nếu không thuộc dạng "c̣i đẹn"
hay "kẹ" th́ chúng cũng là những "chú
lùn". Tại sao vậy nhỉ? Th́ ra, thừa ánh sáng,
thừa gió nhưng lại thiếu chất đă
khiến chúng khó mà phổng phao được.
Một là, do ánh sáng mặt trời gồm 7 mầu thành
phần là đỏ, da cam, vàng, lục, lam, chàm, tím tác
động khác nhau đến sự phát triển
của cây, trong đó ánh sáng đỏ ít gây trở
ngại nhất, ánh sáng lam tím gây trở ngại
nhiều nhất. Sống trong môi trường không có
ánh sáng tím, cây sẽ vươn dài rất nhanh. Trên
núi cao, do không khí loăng, ít bụi, lại tương
đối trong suốt nên tia tím và tia ngoại tím
trong ánh sáng mặt trời rất ít bị hấp
thụ. Chính chúng đă khống chế sinh trưởng
của cây mạnh hơn ở đồng bằng
nhiều.
Hai là, trên núi cao không khí loăng, đất
cũng rất mỏng, thậm chí không có lớp
đất màu, v́ thế nước và chất dinh dưỡng
rất dễ bị rữa trôi. Nhiệt độ
về đêm trên núi lại xuống rất thấp,
ban ngày cũng thấp hơn ở đồng bằng
nên có ảnh hưởng nhất định đến
sự sinh trưởng của cây.
Ngoài ra, trên núi cao gió thổi cũng
mạnh hơn ở đồng bằng làm cho cây
phải mọc nghiêng hoặc nằm rạp xuống.
Nếu có dịp đi qua Hoàng Sơn ở An Huy (Trung
Quốc), bạn sẽ thấy những cây tùng Hoàng Sơn
nổi tiếng: thân cây rất thấp, uốn ngược
chiều gió như chào đón khách tới thăm v́
thế được gọi là “tùng đón khách”.
Gió trên núi đă tạo cho cây tùng có dáng như
vậy.
Do tác động tổng hợp của các
điều kiện trên, nên cây trên núi cao có dáng
thấp hơn cây ở đồng bằng.
40- V́ sao băng ở Nam cực nhiều hơn
ở Bắc cực?
|
Băng Nam cực có nơi dày
tới 4.000 mét. |
Nam cực và Bắc cực đều là
hai mỏm tận cùng của trái đất, ở vĩ
độ giống nhau, thời gian chiếu và góc
độ chiếu của mặt trời cũng
giống nhau, vậy mà chúng khác nhau đến kỳ
lạ. Nếu như lớp áo băng Nam cực
dầy trung b́nh khoảng 1.700 mét, th́ ở cực
Bắc, lớp vỏ lạnh giá này chỉ dày từ
2 đến 4 mét mà thôi.
Vốn là vùng Nam cực có một
mảng lục địa rất lớn được
gọi là “đại lục thứ bảy” của
thế giới, có diện tích khoảng 14 triệu
km2. Năng lực giữ nhiệt của lục địa
rất kém, v́ thế, nhiệt lượng thu
được trong mùa hè bức xạ hết rất
nhanh khiến băng tích lại nhiều. Sông băng
trên lục địa từ trên cao di động
xuống bốn phía bị vỡ thành nhiều
tảng băng rất lớn ở bên bờ biển,
trôi nổi trên đại dương bao quanh lục
địa, tạo nên những vật cản là các núi
băng cao lớn.
Ngược lại, Bắc băng dương
ở vùng Bắc cực có diện tích rất lớn
khoảng 13,1 triệu km2, nhưng chỉ toàn là nước.
Nhiệt dung của nước lớn, có thể
hấp thụ tương đối nhiều nhiệt
lượng rồi từ từ toả ra, nên băng
ở đây ít hơn ở Nam cực. Hơn nữa,
tuyệt đại bộ phận băng lại tích
tụ ở trên đảo Greenland.
Người ta đă tính được
rằng diện tích băng che phủ trên toàn trái
đất là khoảng gần 16 triệu km2, mà Nam
cực chiếm tới 4/5. Tổng thể tích băng
ở Nam cực ước khoảng 28 triệu km3, c̣n
ở Bắc cực chỉ bằng gần 1/10 mà thôi.
Nếu toàn bộ băng ở Nam cực tan hết th́
mực nước biển trên thế giới sẽ dâng
cao khoảng 70 mét.
41- Tại sao người ta thích "đua
đ̣i"?
|
Các đoạn thẳng trong thí
nghiệm của Arch. |
Trong cuộc sống hàng ngày, khi cách nghĩ
và cách làm của ta khác với mọi người,
bao giờ chúng ta cũng t́m cách thay đổi để
cho được như người khác, gọi là
“đua đ̣i”. Tâm lư học gọi hiện tượng
đi theo số đông về nhận thức và hành
động dưới sức ép của dư luận
là “hiệu ứng theo đàn”.
Năm 1956, nhà tâm lư học Mỹ Arch
đă làm một thí nghiệm nổi tiếng: Ông
chọn 50 người đến so sánh độ dài
của mấy đoạn thẳng. Trên h́nh vẽ,
họ được yêu cầu phân biệt xem đoạn
thẳng ở bảng A bằng đoạn thẳng nào
trên bảng B.
Khi trả lời riêng rẽ, 100% nói chính
xác là đoạn giữa trên bảng B. Nhưng khi
Arch đưa thêm 7 nhân viên của ông vào cùng nhóm thí
nghiệm với từng người, và họ đều
nhất trí đưa ra kết quả sai (đoạn
trái ở bảng B), th́ đă có tới 32% số người
cũng trả lời sai như vậy.
Rơ ràng, trước ảnh hưởng
của tập thể 7 người, người
thứ 8 trong nhóm đă vứt bỏ phán đoán
của ḿnh, cũng “đua đ̣i” và nói đoạn
bên trái. Do đó, có thể thấy “hiệu ứng
theo đàn” đă có tác dụng mạnh mẽ đến
thế nào đối với từng cá nhân.
Nguyên nhân ǵ gây ra hiệu ứng này? Tâm
lư học đă khái quát thành những điểm dưới
đây:
- Tín nhiệm tập thể: Người
ta thường cho rằng phát đoán của đa
số bao giờ cũng đúng hơn của cá nhân,
do đó tin tưởng vào tập thể.
- Khuất phục tập thể: Người
ta thường thích gần gũi với những người
có chung quan điểm với ḿnh, cho nên để tránh
cô lập, khỏi bị tẩy chay, đă phải
miễn cưỡng theo đàn.
- Không khí mơ hồ của hoàn
cảnh: Rất nhiều trường hợp, v́
sự mơ hồ của hoàn cảnh, tự ḿnh không
dám quả quyết, đành phải dựa vào
những người chung quanh, bắt chước hành
vi của họ. Đây là sự theo đàn để
tránh lúng túng.
Ngoài ra, trí thông minh, tinh thần và quan
điểm riêng của mỗi người đều
có thể gây ra hiệu ứng theo đàn. Nói chung, người
có trí thông minh càng cao, tinh thần càng vững và quan
điểm riêng càng mạnh, càng khó hành động
mù quáng theo đàn.
42- V́ sao cá sống dưới băng thường
tụ tập đến các lỗ thủng?
|
Cá rất thích bơi đến các
lỗ thủng, và ở đây, chúng cũng
dễ bị con người bắt nhất. |
Về mùa đông, nhiệt độ
ở các nước hàn đới xuống rất
thấp, thường dưới 0 độ C nên ao
hồ sông ng̣i đều bị phủ một lớp
băng dày. Trong thời gian này, cá sống dưới
đáy hồ rất thích bơi đến những
lỗ thủng của lớp băng và liên tục
sủi tăm. V́ sao vậy?
Chúng ta đều biết nước có
thể hoà tan một phần ôxy trong không khí. Nói chung
nước ở các ao hồ sông ng̣i có thể
tự cung cấp ôxy đủ để cá thở.
Khi nước mới đóng băng, lượng
oxy hoà tan c̣n nhiều, cá dồn xuống đáy
hồ sống ở tầng nước ấm áp, lúc
này chúng hoạt động rất ít, quá tŕnh thay
đổi tế bào diễn ra chậm hẳn lại.
Nhưng lớp băng mỗi ngày một dày, ôxy trong
không khí rất khó hoà tan vào nước. Mặt khác,
hàm lượng oxy trong nước giảm dần do
bị các loài tiêu thụ và do quá tŕnh phân huỷ các
chất hữu cơ ở đáy hồ. Đồng
thời, hàm lượng carbonic trong nước tăng
dần, nếu vượt quá giới hạn sẽ
khiến cá không sống được.
Hiện tượng thiếu oxy xuất
hiện trước tiên ở tầng nước sâu,
và lan dần lên các tầng trên. Do khó thở ở
tầng đáy hồ, cá phải ngoi lên cao. Nhưng lượng
oxy ngày càng giảm khiến cá hô hấp rất khó khăn,
bởi vậy chúng thường tập trung ở xung
quanh những lỗ thủng của lớp băng
để thở, thậm chí có con c̣n nhảy lên
miệng hố.
Một nguyên nhân khác của hiện tượng
này là v́ cá rất thích ánh sáng. Tầng nước sâu
ở dưới lớp băng thường tối
mờ, trong khi ở dưới những lỗ
thủng thường có nhiều ánh sáng mặt
trời chiếu xuống.
Để bổ sung ôxy cho hồ nuôi cá,
ở các nước hàn đới, về mùa rét người
ta phải đục thủng nhiều lỗ ở
lớp băng trên hồ, nhờ thế đàn cá
sẽ an toàn sống đến mùa xuân.
Voi và tê giác phần lớn sống ở
vùng nhiệt đới, chốc chốc lại
xuống nước ngâm ḿnh, nhưng sau khi lên
khỏi mặt nước, chúng thường phun lên cơ
thể một thứ bùn nhăo hoặc một
lớp khá dày nước bùn loăng, kết quả là
người bẩn vẫn hoàn bẩn.
Chúng có dại dột không nhỉ? Không.
Kỳ thực, lớp bùn đó sẽ là
"tấm màn" chống muỗi cho voi. Tuy da
của voi và tê giác rất dày, nhưng ở giữa
các nếp gấp của da lại có nhiều chỗ
là da non mỏng mềm, không thể địch
nổi vô số côn trùng hút máu như muỗi,
ruồi càng cua, ruồi trâu. Lũ côn trùng này
rất thích chui vào các nếp gấp của da động
vật đẳng nhiệt cỡ lớn như voi và
tê giác, ra sức cắn và châm chích, khiến những
con vật to lớn đó vừa đau vừa
ngứa.
Hơn nữa, động vật đẳng
nhiệt sau khi tắm xong th́ mạch máu dưới
da nở ra rất to so với b́nh thường,
rồi bốc mùi tanh hôi hấp dẫn côn trùng hút máu.
Voi và tê giác cũng gặp phải t́nh trạng đó.
V́ vậy, để tránh phiền toái, chúng bôi bùn
nhăo và nước bùn loăng để mong lấp kín
những vết nhăn trên da, h́nh thành màng bảo
vệ ḿnh khỏi những kẻ không mời mà đến.
Mặt khác, khi vừa lên khỏi mặt nước,
da dẻ c̣n đang ướt, đắp ngay bùn lên
da mới dễ dính
43- Nhảy xuống từ một toa xe đang
chạy, phải làm thế nào?
Nếu ta nhảy về đằng trước
khi xe đang chạy, dĩ nhiên là không những không
trừ được vận tốc mà ngược
lại, làm tăng nó lên. Lập luận như
vậy, ta sẽ suy ra rằng phải nhảy về phía
sau. Bởi v́ khi đó, vận tốc nhảy trừ
vào vận tốc của xe, nên khi chạm đất,
thân ta sẽ phải chịu lực ít hơn. Nhưng
trên thực tế, nhảy như vậy lại
rất nguy hiểm. Tại sao?
Câu trả lời là, dù nhảy về
đằng trước hay đằng sau, ta cũng
đều có cơ bị ngă, v́ khi chân chạm đất
dừng lại rồi th́ phần trên của thân người
vẫn chuyển động. Vận tốc của
chuyển động này khi nhảy về phía trước
quả là có lớn hơn nhảy về phía sau, nhưng
điều quan trọng ở đây là ngă về
đằng trước ít nguy hiểm hơn hẳn ngă
về đằng sau.
Khi ngă về phía trước, do
chuyển động đă thành thói quen, ta thường
bước chân lên phía trước (nếu xe
chuyển động nhanh ta sẽ chạy theo vài bước),
và nhờ thế mà không ngă. Chuyển động
đó đă thành thói quen, v́ cả đời ta đă
thực hiện nó trong lúc đi (theo quan điểm cơ
học, đi chẳng qua là một loạt các động
tác ngă thân người về đằng trước
và được đỡ lại nhờ việc bước
chân lên phía trước). C̣n khi ngă đằng sau, do
không có chuyển động cứu nguy như vậy
của chân, nên nguy hiểm hơn nhiều. Mặt khác,
c̣n một điều quan trọng nữa là, dù
bị ngă th́ ngă về đằng trước,
nhờ có tay chống, cũng đỡ nguy hiểm hơn
ngă về đằng sau.
Tóm lại, nhảy ra khỏi xe
về đằng trước ít nguy hiểm hơn là
do cấu tạo cơ thể chúng ta chứ không
phải do quán tính. Rơ ràng là đối với
những vật vô tri th́ quy luật đó không áp
dụng được: Một cái chai ném ra khỏi xe
về đằng trước dễ bị vỡ hơn
khi ném về phía sau. V́ vậy, nếu phải
nhảy khỏi toa xe v́ một lư do nào đó, bạn
nên ném đồ về phía sau, c̣n chính ḿnh th́
phải nhảy về phía trước.
Nếu có kinh nghiệm và b́nh tĩnh hơn,
bạn hăy nhảy lùi: Nhảy về phía sau nhưng
vẫn quay mặt về phía trước.
44- V́ sao một số thực vật
rỗng thân?
|
Họ ḥa thảo là tiến hóa
nhất trong giới thực vật, nên hầu
hết thân cây đều rỗng. |
Cùng một lượng vật liệu,
nếu đúc thành chiếc cột chống to và
rỗng th́ chịu lực khỏe hơn nhiều so
với chiếc cột đặc nhưng nhỏ.
Các loài cây họ ḥa thảo như ngô, lúa nước,
lau sậy, tre, nứa… đă áp dụng đúng
bí quyết xây dựng này, trở thành nhóm thực
vật tiến hóa cao nhất.
Nếu cắt ngang thân cây, quan sát
mặt cắt, có thể thấy cấu tạo chung
của thân cây như sau: Ngoài cùng là một
lớp biểu b́, đôi khi phủ lông hoặc gai
nhọn. Mặt trong biểu b́ là tầng vỏ,
chứa mô vách mỏng và mô chống đỡ
vững chắc. Cả tầng vỏ và biểu b́
đều mỏng. Bên trong hai tầng này là trung
trụ. Đây là nơi quan trọng nhất trong thân
cây, chứa các bó mạch, vận chuyển nước
và thức ăn. Trong cùng của phần trụ là
tủy cây, nơi dự trữ thức ăn.
Các loại cây họ thảo rỗng thân,
đó là v́ phần tuỷ cây đă sớm bị thoái
hóa. Khi c̣n non, thân cây vốn đặc, nhưng
sau quá tŕnh tiến hóa lâu dài, phần tủy này tiêu
biến theo hướng có lợi cho cây. Mô chống
đỡ và bó mạch gỗ trong thân cây giống như
giầm trong kiến trúc bê tông cốt sắt, có nó cây
mới đứng thẳng không đổ. Nếu thân
cây được tăng cường mô chống
đỡ và bó mạch gỗ, giảm bớt,
thậm chí tiêu biến đi bộ phận tủy cây
mềm nhũn, cây sẽ có kết cấu h́nh
ống, như vậy lực chống đỡ sẽ
lớn, lại tiết kiệm được nguyên
liệu.
45- V́ sao muỗi thích đốt người
mặc đồ sẫm màu?
|
Muỗi ít khi đốt người
mặc đồ sáng màu, v́ chúng bị lóa
mắt. |
Đôi khi bên bàn ăn, bạn bị
muỗi đốt chí tử, trong khi nhưng người
khác vẫn b́nh an vô sự. Có thể bạn cho
rằng máu ḿnh "ngọt" hơn, nên chúng thích
t́m đến. Thật ra, đó là v́ màu quần áo bạn
rất hợp "gu" của chúng.
Khả năng phân biệt màu sắc
nằm ở đôi mắt muỗi. Đôi mắt này
rất to, chiếm tới ¾ diện tích phần
đầu, gồm nhiều mắt nhỏ ghép thành, gọi
là “mắt ghép”. Mắt muỗi không những phân
biệt được các vật khác nhau mà c̣n có
thể nhận biết màu sắc và cường
độ ánh sáng mạnh yếu.
Đa số các loài muỗi đều thích
ánh sáng mờ; tối quá hoặc sáng quá đều
không hợp "gu" của chúng. Khi chúng ta
mặc quần áo sẫm màu, ánh phản quang hơi
tối rất hợp với tập tính hoạt động
của muỗi. Ngược lại, quần áo màu
trắng phản quang mạnh sẽ xua đuổi
muỗi tránh xa. V́ thế, người mặc
quần áo sẫm màu dễ bị đốt nhiều
hơn.
Đương nhiên do muỗi có
nhiều loài khác nhau nên cường độ ánh sáng
ưa thích của mỗi loài không giống nhau. Ví
dụ, phần lớn loài muỗi vằn thích
hoạt động ban ngày, c̣n các loài muỗi khác thích
hoạt động vào lúc sẩm tối hoặc
rạng sáng. Nhưng dù là loài muỗi nào, chúng cũng
đều lẩn tránh nơi có cường độ
ánh sáng cao. Ngay cả loài muỗi vằn thích hoạt
động ban ngày th́ cũng phải sau 3-4 giờ
chiều mới tung hoành.
46- Tại sao nước biển mặn?
|
Tung b́nh, trong 1 kilogram nước
biển có 35 gram muối. |
Có người nói nước biển
mặn v́ ḥa tan rất nhiều muối. Nhưng đó
không phải câu trả lời, bởi muối ở
đâu mà ra? Không lẽ nước sông, nước
hồ không có muối ḥa tan mà chỉ có nước
biển?
Đến nay, các nhà khoa học vẫn
chưa t́m ra câu trả lời thỏa đáng. Có
hai giả thuyết:
- Giả thuyết thứ nhất cho
rằng ban đầu nước biển cũng
ngọt y hệt nước sông, nước hồ.
Sau đó, muối từ trong nham thạch và các
lớp đất xói ṃn, theo mưa chảy ra các ḍng
sông. Rồi các ḍng sông đổ về biển
cả. Nước biển bốc hơi, trút xuống
thành những cơn mưa. Mưa lại đổ ra
các ḍng sông... Cứ như vậy, theo thời gian,
muối đă lắng đọng dần xuống
biển, khiến biển ngày càng mặn hơn. Theo
đó, dựa vào hàm lượng muối trong nước
biển, người ta có thể tính ra tuổi
của nó.
- Giả thuyết thứ hai cho rằng,
ngay từ đầu nước biển đă mặn
như vậy. Lư do là các nhà khoa học thấy
rằng, hàm lượng muối trong nước
biển không tăng lên đều đặn theo
tuổi của trái đất. Khi nghiên cứu những
lớp đất đá trong các hang động bị
nước biển tràn vào, người ta thấy
rằng, hàm lượng muối trong nước
biển luôn thay đổi, khi lên khi xuống chứ
không cố định. Đến nay, người ta
vẫn chưa biết tại sao lại như vậy.
47- Tại sao khi học có lúc tiến
bộ nhanh, có lúc lại chậm ?
|
Bạn hăy cố gắng hết ḿnh
ở giai đoạn "cao nguyên", rồi
sẽ có lúc kiến thức của bạn
nhảy vọt đột biến. |
Mọi kỹ năng hay kiến thức mà chúng
ta có được đều là do trải qua một
quá tŕnh tập luyện lâu dài. Chẳng hạn
học ngoại ngữ hay đánh đàn. Nhưng
sẽ có lúc bạn sẽ thấy đầu óc dường
như ́ ra, măi chẳng tiến bộ, và cũng có
lúc lại "lên tay” rất nhanh.
Nhiều nhà tâm lư học đă làm thí
nghiệm và vẽ đồ thị học tập. Ta
hăy xem đồ thị trên đây, với một
số quá tŕnh chính sau.
1. Giai đoạn vọt tiến. Học
viên bao giờ cũng tiến bộ rất nhanh,
bởi v́ lúc mới đầu ai cũng háo
hức, tập trung cao. Mặc khác tiến bộ
của kỹ năng chỉ là từ nông đến
sâu, từ dễ đến khó, nên giai đoạn này
được nâng cao rất nhanh.
2. Giai đoạn cao nguyên: Thành tích học
tập khá bằng phẳng, ở mức cao. Trong quá tŕnh học, khi đến một giai
đoạn nào đó, tuy vẫn cố gắng nhưng bạn không thấy tiến bộ, thậm chí c̣n
kém đi, gây ra cảm giác chán nản. Hiện tượng này là thời kỳ quá độ từ
bậc thấp sang bậc cao. Mặc khác, động cơ học tập của bạn giảm xuống,
không được hăng hái như lúc đầu,
hoặc cũng có thể do phương pháp không
thỏa đáng. Do đó cần phải điều
chỉnh lại cho phù hợp, không nên thối chí,
bỏ học.
3. Đột biến: Cuối thời
kỳ cao nguyên bao giờ cũng đến thời
kỳ nhảy vọt rơ rệt. Thực tế là
học viên sau một thời gian dài ṃ mẫm thử
nghiệm, cuối cùng đạt đến giai đoạn
thành thạo. Đây là kết quả của quá tŕnh
tập luyện lâu dài từ trước.
Như thế, cao nguyên không phải là
giới hạn của tiến bộ, chỉ cần
"nhấn ga" một chút, qua ngưỡng này là
bạn sẽ đạt đến mức thành
thạo. Khi thấy học hành mệt mỏi, hăy
nghỉ ngơi thư giăn một chút. Chỉ cần hăng
say và chú trọng phương pháp khoa học, nhất
định bạn sẽ lên đến đỉnh
cao.
48- V́ sao ngài tằm đẻ trứng xong là
chết ngay?
|
Một đàn tằm. |
Hầu hết các loài sinh vật đều
sinh sản và đợi con non cứng cáp rồi
mới chết. Nhiều loài c̣n đợi được
đến các thế hệ cháu chắt sau lũ lượt
ra đời. Thế nhưng, ngài tằm vừa đẻ
trứng xong là chết ngay. Tại sao lại như
vậy?
Khi con ngài bay bổng trên bầu trời,
ấy là nó đă trải qua một "kiếp"
tằm. Tằm ăn lá, nhả tơ, quấn kén,
rồi thành ngài. Khi đó, nó đă ở giai đoạn
cuối cùng của một đời sống sinh
vật. Lúc này, miệng của nó đă bị thoái
hóa, không thể ăn được ǵ nữa.
Trong khi mang trứng, ngài đă dự
trữ khá nhiều chất dinh dưỡng cho
sứ mệnh cuối cùng của nó - sứ mệnh
truyền giống. Khi đẻ trứng, nó
bị kiệt sức rất nhanh. Và khi quả
trứng cuối cùng ra đời, nó lặng
lẽ giă từ sự sống. Đó cũng là
định mệnh của họ hàng nhà tằm.
49- Tính tuổi của cây bằng cách nào?
Trong
thiên nhiên có cây to, cây nhỏ, cây sống ngh́n năm,
cây sống mấy chục năm. Làm thế nào để
biết tuổi của chúng? Phương pháp tin
cậy nhất là đếm số ṿng tṛn trong thân
cây khi cắt ngang. Tuy nhiên, hăy cẩn thận, bạn
có thể nhầm đấy!
Nếu cắt một lát mỏng ngang qua
thân cây, dưới kính hiển vi có thể quan sát
thấy từng bó mạch gỗ. Lớp ngoài bó
mạch gỗ là phloem, lớp trong là xylem, giữa
lớp phloem và xylem là lớp thượng tầng. Thân
cây to lên được là nhờ có lớp thượng
tầng này. Hàng năm nó đều phân chia tế bào,
sản sinh ra lớp phloem và xylem mới nên thân cây
cứ mỗi năm lại to dần ra.
Trong điều kiện thời tiết
khác nhau, lớp thượng tầng cũng phát
triển khác nhau. Từ mùa xuân đến mùa hè, cây
sinh trưởng thuận lợi, nên tế bào thượng
tầng phân chia nhanh, vách tế bào mỏng, xenlulô ít,
các ống mạch dẫn nước nhiều.
Chất gỗ tạo ra trong mùa này gọi là gỗ mùa
xuân hay gỗ đầu năm. Đến mùa thu -
đông, thời tiết khắc nghiệt hơn, các
tế bào thượng tầng phân chia chậm, vách
tế bào dày, xenlulô nhiều, mạch dẫn ít.
Chất gỗ tạo ra trong mùa này gọi là gỗ mùa
thu, hay gỗ cuối năm.
Khi cưa ngang thân gỗ, bạn sẽ
thấy chất gỗ và màu sắc mỗi ṿng khác
nhau. Trong đó, thớ gỗ thô, màu nhạt chính là
gỗ xuân; thớ mịn, màu thẫm chính là gỗ
thu. Một ṿng tṛn gồm màu nhạt và thẫm chính
là một ṿng tuổi, do cây tạo ra trong một năm.
V́ vậy, dựa vào số ṿng này, người ta có
thể đoán ra tuổi cây.
Tuy nhiên, không thể dùng công thức này
để tính tuổi tất cả các loại cây. Ví
dụ một số cây như cam, quưt, mỗi năm có
tới 3 lần sinh trưởng, v́ thế số ṿng
tuổi được gọi là “ṿng tuổi
giả”. Tức là, 3 ṿng chỉ tương
đương với 1 tuổi thôi.
50- Có thật các hành tinh đều ở
gần đường hoàng đạo?
|
Quỹ đạo của các hành tinh chỉ nghiêng một chút so
với mặt phẳng quỹ đạo trái đất (hoàng đạo). |
Khi nh́n lên bầu trời, chúng ta thấy
mặt trời luôn di chuyển về phía đông.
Đường đi này của nó gọi là
đường hoàng đạo. Trên thực tế,
đường hoàng đạo là ṿng tṛn được
tạo ra bởi quỹ đạo mở rộng vô
tận của trái đất cắt ngang quả
cầu vũ trụ giả định...
Theo nguyên lư trên, điều khiến các
hành tinh "yêu mến" đường hoàng đạo
có liên quan tới quỹ đạo của chúng.
Thực tế, quỹ đạo của 9 hành tinh quay
quanh mặt trời tuy đan chéo nhau nhưng chênh
lệch không nhiều lắm. Nếu lấy quỹ
đạo của trái đất làm tiêu chuẩn
để so sánh th́ độ chênh lệch quỹ
đạo của các hành tinh kia như sau (tính từ
trong ra ngoài):
- Sao Thủy: 7 độ 0 phút
- Sao Kim: 3 độ 24 phút
- Sao Hỏa: 1 độ 51 phút
- Sao Mộc: 1 độ 18 phút
- Sao Thổ: 2 độ 29 phút
- Sao Thiên Vương: 0 độ 46 phút
- Sao Hải Vương: 1 độ 46 phút
- Sao Diêm Vương: 17 độ 9 phút.
Như vậy, chỉ trừ sao Diêm Vương
quá xa, các hành tinh khác chênh nhau nhiều nhất không
quá 8 độ, tức là vị trí của chúng
hầu như không cách xa đường hoàng đạo
là mấy.
51- V́ sao trong sa mạc có ốc đảo?
|
Một ốc đảo giữa sa
mạc châu Phi. |
Giữa sa mạc mông mênh cát trắng, không
một giọt nước, thỉnh thoảng lại
xuất hiện những ốc đảo xanh tươi
với nhiều động thực vật đa
dạng. Tại sao ở đây có nhiều nước
như vậy, dù rất ít mưa?
Đa số các ốc đảo đều
dựa vào núi cao, hướng ra sa mạc. Vào mùa
đông, băng tuyết đọng lại trên đỉnh
núi. Đến mùa hè, băng tan ra, chảy thành sông.
Do địa thế dốc nên nước chảy
xiết, mang theo bùn đất, thậm chí cả các
tảng đá lớn từ trên núi. Nhưng khi đến
cửa sông, địa thế đột nhiên bằng
phẳng, bùn đất lắng đọng lại hai
bên bờ, tích tụ dần thành những khu vực
đất đai màu mỡ.
Đa số các ḍng nước không
đủ mạnh để chảy ra biển, mà
chỉ chảy một đoạn rồi thấm vào
đất cát thành các mạch nước ngầm.
Ở hai vùng bờ sông, gần các mạch nước
ngầm, cây cối mọc xanh tươi. Đó chính
là các ốc đảo.
52- V́ sao vẹt, yểng học được
tiếng người?
|
Chỉ một vài loài chim
biết hót như vẹt, yểng, khướu là
có thể học nói được. |
“Mấy giờ rồi?”, “chào bác!’”,
“ăn cơm chưa?”, “tạm biệt”… Có
tiếng ai the thé thốt lên từ góc vườn, nh́n
ra, bạn sẽ kinh ngạc khi thấy đó không
phải là tiếng của chủ nhà, mà là tiếng
một chú vẹt tinh nghịch. Làm sao nó nói được
nhỉ?
Thực ra, đại năo của vẹt
không phát triển như đại năo của người,
không có sẵn điều kiện để biết nói.
Những câu phát âm đơn giải
của chúng chỉ là một kiểu bắt chước
vô thức, mà phải do người dạy mới h́nh
thành. Trong trạng thái hoang dă, hiếm thấy con
vẹt nào nói được.
Ngôn ngữ là sản phẩm chỉ có
trong quá tŕnh phát triển của xă hội loài người.
Ngoài sự cần thiết phải nhờ thanh đới
(thông qua cử động nhịp nhàng của
họng, lưỡi, răng, môi) để phát âm, c̣n
cần sự kết hợp từ vựng và quy
luật ngôn ngữ mới có thể biểu đạt
tốt những điều nghĩ ra trong óc. Các loài
vẹt, yểng có thể “nói” được
những câu đơn giản, chẳng qua là chúng có
cái lưỡi vừa nhọn vừa nhỏ, mềm và
đầy thịt, nên chỉ biết lặp lại
một chuỗi âm tiết mà người ta dạy cho
nó thôi. Chưa bao giờ người ta thấy chúng nói
được những câu phức tạp cả.
Nh́n chung, loài chim sinh ra là có thể phát
âm. Khi người ta thường xuyên lấy vài âm
tiết nào đó để gây ảnh hưởng
với chúng, lâu ngày chúng sẽ bắt chước
được. T́nh huống này gọi là phản
xạ nói vô điều kiện. Sau này, mỗi khi
gặp người, do bị kích thích mà sinh ra
phản ứng, chúng nhắc lại mấy âm tiết
đơn giản đă học được, đây
là phản xạ có điều kiện.
Trong giới động vật, chỉ có
loài chim (nhất là những loài biết hót) là có
thể bắt chước âm thanh của đồng
loại và tiếng kêu của các động vật
khác. C̣n học nói tiếng người chỉ
giới hạn ở vài loài biết hót, như
vẹt, yểng, khướu.
53- V́ sao trong bụng nhặng xanh có rất
nhiều ḍi?
|
Một con nhặng xanh có thể mang
trong bụng hàng trăm con ḍi. |
Khi bạn dùng vỉ đập chết
một con ruồi nhà, trong bụng nó không có ǵ. Nhưng
khi đánh một con nhặng xanh th́ từ bụng nó
thường chui ra rất nhiều ḍi. Có người
nói rằng v́ nhặng xanh ăn phân, bụng thối
rữa nên mới sinh ra nhiều ḍi như vậy...
Có người lại bảo nhặng
xanh ăn phải trứng ruồi, và trứng này
nở thành ḍi trong bụng chúng. Thực ra, cả hai
cách nói này đều sai.
Ruồi nhà và nhặng xanh khác nhau ở
chỗ: Ruồi nhà đẻ trứng c̣n nhặng xanh
"đẻ con". Nói đúng ra, nhặng xanh không
đẻ trứng mà đẻ ra ấu trùng: ḍi.
Bởi thế, trong bụng một con nhặng mẹ
thường có rất nhiều ḍi.
Trong thế giới côn trùng, hiện tượng
"đẻ con" như nhặng xanh không phải
hiếm. Ví dụ, loài rệp cây kư sinh trên các cây
lương thực cũng đẻ ra ấu trùng. Tuy
nhiên, hiện tượng "mang thai" của côn
trùng khác hẳn với các loài động vật có
vú. Trứng của động vật có vú rất
nhỏ, nhỏ đến mức mắt thường
khó nh́n thấy. Nhưng khi được thụ tinh,
trứng này sẽ phát triển thành phôi, và phôi ngày
một lớn dần thành thai non. C̣n trứng của
côn trùng lớn hơn rất nhiều, chất dinh dưỡng
bên trong đủ nuôi để con non phát triển, không
cần mẹ. Thực tế, hiện tượng
"đẻ con" của côn trùng chỉ là
giả, và về bản chất, nó không khác ǵ đẻ
trứng, chỉ khác chăng một đằng là con
non nở trong bụng mẹ, một đằng là
nở ở ngoài mà thôi.
54- Các hành tinh trong vũ trụ liệu có va
vào nhau?
|
|
Nếu
trái đất ở rất gần các hành tinh khác và
chúng chuyển động ngược chiều nhau th́
khả năng đụng độ rất dễ
xảy ra. Nhưng thực tế, trái đất và các
hành tinh đều ngoan ngoăn quay trên những quỹ
đạo nhất định khiến cho chuyện
đó là không thể.
Mặt trăng là thiên thể gần trái đất
nhất, cách chúng ta 384.000 km. Khoảng cách giữa mặt
trời và trái đất là 149,6 triệu km (hăy tưởng tượng muốn
đi bộ tới quả cầu lửa này, bạn phải mất hơn 3.400 năm). |
Các hành tinh khác trong
hệ mặt trời cũng ở rất xa, và
bởi chịu sức hút của mặt trời nên chúng
đều có một quỹ đạo ổn định.
Do đó chúng không có cơ hội đụng độ
với hành tinh xanh.
Các ngôi sao khác trong vũ trụ cách trái
đất c̣n xa hơn nữa. Sao Biling là gần
nhất, cách trái đất 4,22 năm ánh sáng, tức
là từ v́ tinh tú này tới trái đất, ánh sáng
phải “́ ạch” mất 4 năm 3 tháng.
Trong khoảng không vũ trụ gần
hệ mặt trời, trung b́nh các sao cách nhau
khoảng trên 10 năm ánh sáng. Hơn nữa, chúng
đều chuyển động theo một quy luật
nhất định. Mặt trời cũng như
tất cả các sao trong dải Ngân Hà đều
chuyển động xung quanh trung tâm hệ theo một
quy luật riêng chứ không phải là hỗn
loạn. Bởi vậy, rất ít khả năng các
sao trong dải Ngân Hà va chạm nhau.
Theo tính toán của các nhà khoa học,
trong hệ Ngân Hà trung b́nh khoảng một tỷ
tỷ năm mới xảy ra một va chạm
giữa các sao. Tuy nhiên, xác suất các sao chổi va
quyệt vào hành tinh th́ thường xuyên hơn
nhiều.
55- Trên mặt trăng có thể nhảy cao hơn
trên trái đất bao nhiêu?
Giả sử rằng vận động viên
giỏi nhất có thể nhảy qua mức xà 2,42 mét.
Con số này chưa phải là lớn lắm, nhưng
chúng ta chỉ có thể tăng kỷ lục lên
một chút nữa mà thôi, v́ không thể thắng
được lực hút trái đất. C̣n nếu
như cuộc thi tổ chức trên mặt trăng,
kỷ lục sẽ được lập ra sao?
Định luật lực hấp dẫn
giải thích rằng: lực hấp dẫn và khối
lượng của hai vật thể tỷ lệ
thuận với nhau. Dựa vào định luật
đó, có lẽ bạn sẽ nói rằng: khối lượng
của mặt trăng bằng 1/81 khối lượng
trái đất, trọng lượng của một người
trên mặt trăng sẽ giảm đi 81 lần, và
nếu trên mặt đất người ấy
nhảy được 2,42 mét, th́ trên mặt trăng
anh ta sẽ lên tới độ cao 200 mét!
Thực tế không phải vậy.
Vừa rồi chúng ta mới chỉ nói
đến nửa đầu của định
luật hấp dẫn mà chưa nói đến
phần sau, phát biểu rằng: lực hấp dẫn
tỷ lệ nghịch với b́nh phương
khoảng cách giữa hai vật thể. Bán kính
của mặt trăng chỉ bằng 27% bán kính trái
đất, như vậy rơ ràng là khoảng cách
giữa người tới trung tâm mặt trăng
ngắn hơn nhiều khoảng cách tới trung tâm trái
đất, trong khi đó trọng lượng của
con người lại tăng một cách tương
đối. Bởi vậy khi con người lên
mặt trăng, không phải trọng lượng
giảm đi chỉ c̣n bằng 1/81 so với khi ở
trái đất, mà chỉ giảm c̣n bằng 1/6 thôi.
Từ phép tính tổng hợp gồm
khối lượng và bán kính mặt trăng,
chiều cao của vận động viên, ta có đáp
số chính xác là: trên trái đất vận động
viên nhảy cao tới 2,42 mét th́ trên mặt trăng
anh ta có thể nhảy cao 9 mét.
(Theo sách 10 vạn
câu hỏi v́ sao
NXB Khoa học và Kỹ thuật, năm 2002)
|