|
11- Đừng mất công
than tiếc
Khi viết câu này, ngó qua cửa
sổ, tôi thấy trong vườn tôi , có
những vết chân của con quái vật sống
trong khuyết sử thời đại, in vào
đá và diệp thạch. Tôi đă mua những
vết chân đó tại viện Bảo tàng
Peabody của Đại học đường
Yale và tôi c̣n giữ bức thư của viên
bảo quản, cam đoan những vết chân
đó có tự 180 triệu năm nay. Dù một người
ngu dại nhất chắc cũng không để có
ư tưởng muốn đi ngược lại
180 triệu năm của thời gian để làm
thay đổi những vết chân đó. Mà ví
dụ người đó có nghĩ như vậy,
th́ xét cho cùng, cũng không điên rồ hơn
những kẻ bứt rứt nhiều người
thường khổ sở v́ lẽ ấy.
Chắc chắn chúng ta chỉ có thể hành động
để sửa đổi kết quả của
một sự kiện đă xảy ra từ 180 giây
đồng hồ trước, nhưng chúng ta không
có cách ǵ thay đổi được một
sự đă xảy ra rồi.
Có một cách độc nhất ở đời
để lợi dụng dĩ văng là phân tích
một cách điềm tĩnh những lỗi
lầm đă trót phạm, làm bài học nhớ
đời rồi quên hắn những lỗi
đó đi, đừng cho nó dày ṿ ta nữa.
Tôi biết sự đó hợp lư, nhưng chính tôi
đă bao giờ có đủ can đảm và lương
tri để xử sự như vậy chưa?
Muốn rả lời câu hỏi này, xin bạn
nghe câu chuyện đă xảy ra cho tôi cách đây
nhiều năm:
Tôi đă dùng 30 vạn mỹ kim làm vốn mà
chẳng thu được một xu nhỏ
lời. Đầu đuôi thế này: Tôi gây
một tổ chức vĩ đại, chuyên môn
dạy học những người đă trưởng
thành. Nỗi tỉnh lớn đều có
một chi nhánh và đă không tiếc tiền
quảng cáo. Tôi bận dạy học đến
nỗi không có thời gian và cũng không có
cả ư muốn kiểm soát phương diện
tài chánh của công cuộc kinh doanh đó. Tôi
khờ dại đến nỗi không thấy rơ tôi
rất cần một viên giám đốc giảo
hoạt coi chừng những con số chi.
Rút cuộc, một năm sau tôi mới nhận
thấy một sự thực hiển nhiên, để
rồi cụt hứng và phẫn uất. Tôi
thấy rằng tuy con số thâu khổng lồ, mà
không có được một số lời
nhỏ nhít.
Thấy vậy đáng lẽ phải làm hai
việc:
Việc thứ nhất là có đủ lương
tri bắt chước nhà Bác học da đen, George
Washington Carver
(1860-1943),
khi ông này mất món tiền dành dụm trong
cả một đời là bốn vạn mỹ
kim vào dịp nhà ngân hàng mà ông gởi tiền
bị vỡ nợ. Khi có người hỏi ông
đă biết bị phá sản chưa, ông
trả lời: 'Vâng, tôi có nghe nói như vậy'
và tiếp tục dạy học như thường.
Ông đă triệt để xoá bỏ sự thua
lỗ trong trí nhớ đến nỗi không bao
giờ nhắc tới nữa.'
Việc thứ hai đáng lẽ phải làm, là phân
tích những nguyên nhân do thất bại để
rút ra một bài học lâu dài.
Nhưng thú thật cùng bạn, cả hai việc
cốt yếu kia, tôi không làm việc nào. Trái
lại, tôi tự dày ṿ khổ sở. Sau đó hàng
tháng, lúc nào cũng như người mất
hồn, ngủ không được, người
rạc đi. Đáng lẽ cái dại trước
đem lại khôn sau th́ tôi lại cứ nắm
cổ tái diễn cái ngu.
Tôi ngượng mà công nhận sự ngu ngốc
đó, nhưng từ lâu kinh nghiệm dạy tôi
rằng: 'Dạy khốn hai mươi người
dễ hơn sự thực hành những điều
khôn chính ḿnh đă dạy'.
Tôi rất tiếc không nhận được cái
may theo học ông Brandwine tại Đại
học đường George Washington ở Nữu
Ước. Một người đă được
cái may đó là ông Sauders, ngụ tại nhà
số 939, đại lộ Woodycres Bronx, Nữu
Ước kể lại với tôi rằng ông Brandwine,
hồi ấy chuyên dạy về sinh học, đă
cho ông ta một bài học hữu ích vô cùng.
Ông Sauders kể: 'Bấy giờ tôi chưa đầy
hai mươi tuổi, mà đă lo sợ đủ
thứ. Bài làm có lầm lỗi chơ nào là tôi
ngấm ngầm dày ṿ tôi cho đến khổ
sở. Gặp một kỳ thi, tôi thức thâu
đếm để căn móng tay, sợ ḿnh
sẽ rớt. Tôi sống để suy nhgix
những việc đă làm; để mà hối
tiếc đă làm bậy: đắn đo đến
những câu đă nói để tự trách ḿnh
sao chẳng nói thế này, thế nọ, có hơn
không?
Thế rồi một buổi sáng, lớp chúng tôi
tự tại pḥng thí nghiệm ban Thực vật
học và thấy trên bàn, trước mặt ông
giáo Brandwine có lù lù một chai sữa. Chúng tôi
ngồi xuống và tự hỏi không biết chai
sữa kia có liên lạc ǵ với bài học
vệ sinh bữa đó. Bỗng nhiên, ông Brandwine
đứng phắt dậy, gạt chai sữa cho rơi
mạnh vào chậu sứ rửa tay mà la lớn lên
rằng: 'Đừng có than tiếc chỗ
sữa đổ'. Đoạn ông bảo chúng tôi
lại gần và nói: 'Ngó cho kỹ, v́ tôi nhớ
cái bài học này suốt đời. Chỗ
sữa này chảy mất hết và các tṛ
nhớ bài học này suốt đời. Chỗ
sữa này chảy mất hết và các tṛ có
thể thấy nó đang chui ra đường mương,
bây giờ các tṛ có dằn vặt và bứt tóc
cũng thu lại được một giọt.
Suy nghĩ một chút, cẩn thận một chút
th́ có lẽ chỗ sữa này đă không
mất. Bây giờ trễ giờ rồi và ta
chỉ c̣n có thể quên phứt nó đi và
bắt đầu làm việc khác'.
Ông Sauders thêm rằng: 'Sự chứng minh nhỏ
đó, nay tôi c̣n nhớ như in, trong khi tôi đă
quên hẳn những bài h́nh học và La tinh mà tôi
từng đă thuộc làu. Thật ra, trong đời
sống thực tế, nó có ích nhiều hơn
bất cứ môn nào tôi dă học trong bốn năm
tại đại học đường; nhưng
khi nó đă đổ loe loét xuống cống th́
quên phứt nó đi cho rồi chuyện'.
Đọc tới đây, chắc có bạn cười
khẩy cho rằng chỉ có motoj câu phương
ngôn con nít cũng biết, việc ǵ phải làm
lớn chuyện như thế. Tôi cũng
biết, việc ǵ phải làm lớn chuyện như
thế. Tôi cũng biết thiên hạ nhàm tai
về câu ấy, v́ nó ở đầu lưỡi
mọi người và nhắc đến nó th́
gần như vô duyên. Tôi biết bạn đă
nghe câu ấy đến ngàn lần. Nhưng tôi cũng
biết thêm rằng những câu vè tầm thường
đó là tinh tuư của đức tính khôn ngoan,
lịch lăm cổ truyền, từ ngàn năm trước.
Nó là kết tinh những lịch duyệt của
cả nhân loại, cha truyền con nối biết
bao nhiêu đời. Nếu bạn có thể đọc
hết thảy những sách luận đề
về những ưu tư, do những bậc thông
thái nhất trong hoàn cầu đă soạn, th́
bạn cũng không thể kiếm được
một ḍng nào có chân nghĩa sâu xa hơn
những câu phương ngôn thông dụng nhất
như 'Chưa tới cầu đừng lo
thiếu cách qua sông' hay "Đừng than
tiếc chỗ sữa đổ"
12- Sự vui sống
Chắc bạn tự nhủ: 'Anh chàng
Carrnegie này muốn truyền bá đạo
Cơ Đốc Khoa học đây'. Không.
bạn lầm. Tôi muốn không theo đạo
ấy. Nhưng tôi càng sông thêm bao nhiêu
th́ tôi càng tin chắc chắn ở năng
lực huyền bí của tư tưởng.
Nhờ dạy người lớn trog 35 năm,
tôi biết rằng đàn ông và đàn
bà có thể diệt ưu phiền,
sợ sệt cùng nhiều chứng
bệnh và có thể thay đổi
hẳn đời họ đi bằng cách
thay đổi tư tưởng trong
đầu.
Tôi biết! Tôi biết vậy!! Tôi
biết chắc vậy!!!Tôi đă
mục kích cả 100 lần những
sự thay đổi không sao tin được.
Tôi đă thấy thường quá đến
nỗi không c̣n ngạc nhiên ǵ nữa.
Chẳng hạn như trường
hợp học sinh của tôi, ông J.Frank
Whaley. Ông ta bị bệnh thần kinh suy
nhược. Duyên do? Là tại ông ưu
phiền. Ông nói với tôi: 'Cái ǵ cũng
làm cho tôi lo, tôi lo v́ tôi ốm quá; v́ tôi
tưởng rằng tóc tôi mỗi ngày
mỗi rụng; v́ tôi sợ không bao
giờ dành được đủ
tiền để cưới vợ;
sợ không bao giờ thành một người
cha hiền; sợ không cưới
được ư trung nhân; sợ đời
không sung sướng. Tôi lo cả về
những ư nghĩ của người khác
về tôi nữa. Tôi lo ṿ tư tưởng
có ung thư trong bao tử. Thôi thế là
hết làm việc, phải bở sở.
tinh thần tôi sôi lên như nước
trong một nồi sùng sục mà không có
lỗ để xả hơi. áp lực
đó không chịu nổi, phải
xả bớt đi mới được.
Bạn nên cầu trời đừng bao
giờ đi bệnh thần kinh thác
loạn ṿ có nỗi đau đơn
vật chất nào có thể ghê gớm
nỗi thống khổ của nột tinh
thần hấp hối hết.
Bệnh tôi nặng đến nỗi không
dám nói thiệt với người thân
trong nhà. Tôi không tự chủ được
tư tưởng. óc tôi đầy
sợ sệt. Một tiếng động
nhỏ nhất cũng làm tôi nhảy lên.
Tôi trốn mọi người. Tôi không
khóc vô cớ.
Sống một ngày là một ngày hấp
hối. Tôi thấy ai nấy đều
bỏ tôi. Tôi muốn nhảy xuống sông
tự tử cho rồi đời.
Nhưng tôi bỏ ư quyên sinh đi,
quyết định lại Floride, hy
vọng sẽ nhờ đổi gió mà
hết bệnh. Khi tôi bước chân lên
xe, cha tôi đưa một bức thư
bảo tới Floride hăy mở ra coi. Tôi
tới nơi vào giữa mùa du lịch. V́
không thuê được pḥng ngủ, tôi
đành thuê pḥng trong một ga ra xe hơi.
Rồi tôi toan kiếm tại một nhà
chuyên chở mà không được.Thế
là tôi lang thang trên bờ vịnh Floride
để mà tự cảm thấy ưu
phiền khổ sở hơn ở nhà. Tôi
bèn mở bức thư xem ba tôi viết
ǵ. Ba tôi nói: 'C̣n, con xa nhà tới 1.500
dặm mà không thấy bệnh khác chút
chi, phải không? Ba viết vậy là chính
con làm cho con sinh bệnh. Cơ thể cũng
như tinh thần con không đau ốm ǵ
hết. Không phải t́nh thế, hoàn
cảnh mà con gặp đă làm con đau;
chính v́ con nghĩ bậy về những
t́nh thế, hoàn cảnh ấy mà hoá
đau. 'Trong ḷng ta suy nghĩ làm sao th́ ta
như vậy'. Khi nào nhận thấy
được điều đó, th́ con
trở về và con sẽ hết
bệnh'.
Bức thư của ba tôi làm tôi tức
giận. Mong được lời an
ủi th́ không phải đọc lời
thuyết giáo. Tôi giận tới nỗi
nhất định không khi nào trở
về nhà nữa. Đêm ấy tôi đi
trên đường ở Miami tới
một nhà thờ đương làm
lễ. Không biết đi đâu nữa,
toi vào nghe thuyết pháp về câu: 'Chinh
phục được tinh thần ḿnh c̣n
quan trọng hơn là chinh phục
được một châu thành'. Thành
thử tôi cũng lại được
nghe nhữn lời khuyên mà ba tôi đă
viết trong thư: 'Phải quét hết
những rác rưởi chất chứa
trong đầu óc tôi đi. Lần
ấy là lần thứ nhất trong đời,
tôi đă có thể suy nghĩ sáng
suốt và hợp lư được. Tôi
nhận thấy trước kia tôi đă
khùng. Tôi thấy rơ chân tưởng
của tôi mà giật ḿnh: th́ ra bấy
nay tôi cứ muốn thay đổi. Nó cũng
như cái kính máy chụp h́nh; v́ nó hư
nên h́nh ảnh của mọi vật
đếu hư hết, chứ thật
ra, vạn vật có ǵ khác đâu.
Sáng hôm sau tôi thu xếp về nhà.
Một tuần lễ nữa tôi trở
lại làm việc như cũ. Bốn tháng
sau tôi cưới nhà tôi, chính người
mà trước kia tôi sợ cưới
không được, chúng tôi bây giờ
có năm cháu, gia đ́nh vui vẻ.
Hồi tinh thần tôi điều
khiển một xưởng làm b́a
dầy trên 450 thợ. Đời sống
đầy đủ hơn, vui vẻ hơn
nhiều. Tôi tin bây giờ tôi đă
nhận được chân giá trị
của đời sống. Khi nào gặp
những nỗi khó khăn- đời ai
mà chẳng có những lúc ấy? tôi
tự nhủ phải giữ đầu
óc cho sáng suốt và nhờ vậy
mọi sự đều sẽ được
như ư.
'Tôi có thể chân thành nói rằng đă
may mà bị bệnh thần kinh đó v́
nhờ nó tôi mới nhận thấy tư
tưởng anh hưỡng mạnh
mẽ tới tinh thần và cơ thể
ra sao. Bây giờ tôi có thể sai bảo
tư tưởng tôi có để nó giúp
tôi chứ không hại tôi nữa. Ba tôi
đă có lư khi Người bảo tôi
đau ốm không phải v́ những hoàn
cảnh ấy. Và từ khi nhận chân
được điều này, tôi
hết bệnh luôn tới bây giờ'.
Đó là kinh nghiệm của ông Frank J.
Whaley.
Tôi tin chắc rằng sự b́nh tĩnh
trong tâm hồn và nỗi vui trong ḷng không
do khu đất ta ở, của cải
của ta có, địa vị ta giữ mà
chỉ do thái độ tinh thần
của ta thôi. ảnh hưởng của
ngoại giới rất nhỏ. Như trường
hợp của ông già John Brown bị
xử giao v́ xâm chiếm công xưởng
ở Harrpes Ferry và hô hào nô lệ
nổi loạn. Ông ngồi trên quan tài
để tới pháp trường. Tên
coi ngục đi kèm tội nhân th́
hồi hộp, lo lắng. Nhưng trái
lại, ông th́ b́nh tĩnh, lạ lùng.
Ngẩng lên nh́n rặng núi xanh ở
Virrginie, ông thốt: 'Cảnh đẹp làm
sao! Thiệt từ trước lăo chưa
có cơ hội nào để ngắm
cảnh thần tiên như vậy'.
Hay là trường hợp của Robert
Falcon và bạn đồng hành. Họ là
những người Anh đầu tiên
tới Nam cực. Có lẽ chưa ai
khổ cực ghê gớm như họ trên
con đường về. Thức ăn
hết mà dầu lửa cũng hết.
Không thể nào đi được
nữa v́ một trận băo tuyết
thổi dữ dội sát trên mặt
đất liên tiếp 11 ngày đêm, gió
ghê gớm tới nỗi cắt bằng
lớp băng ở miền ấy.
Họ biết rằng thế nào cũng
chết và có mang theo nhiều thuốc
phiện để dùng trong những trường
hợp như vậy.
Nuốt một cục lớn nha phiến
rồi có thể nằm dài trên tuyết
hưởng cái thú 'đi mây' và lên mây
luôn. Nhưng họ không thèm dùng phương
thuốc đó. Họ vừa 'ca những
điệu vui' vừa chết. Chúng ta
biết được thế nhờ
một bức thư từ giă cơi đời
mà tám tháng sau một nhóm thám hiểm
cứu nạn t́m thấy bên 11 cái xác
cứng ngắt.
Thiệt vậy, nếu nuôi tư tưởng
b́nh tĩnh và can đảm th́ chúng ta có
thể vui thú ngắm cảnh trong khi
ngồi trên quan tài mà đến pháo trường;
hoặc trong khi sắp chết đói
chết rét, vẫn có thể ca hát vui
vẻ vang rân cả trại.
Milton, nhà thi sĩ mù đă t́m thấy chân
lư ấy 300 năm trước.
Tâm thần ta một cơi riêng
Nó là Địa ngục, cảnh Tiên trên
đời
Cảnh tiên nhờ nói vui tươi
Địa ngục v́ nó thành nơi đoạ
đày.
Đời Nă Phá Luân và Helen Keller đă
chứng minh hoàn toàn lời đó. Nă Phá
Luân có đủ những cái mà người
thường mơ tưởng: danh
vọng, uy quyền, của cải -
vậy mà ông nói khi ở đảo Saint
Hélène: 'Trong đời tôi, không có
được tới sáu ngày sung sướng'
. c̣n Hellen Keller đui, điếc
và câm th́ lại ca tụng: 'Đời
sống sao mà đẹp thế ta!'.
Sống nửa thế kỷ ṛi,
chẳng kinh nghiệm ǵ, nhưng ít
nhất tôi cũng học điều này.
'Trừ ta ra không có cái ǵ mà cho ta b́nh tĩnh
được hết'. Câu ấy tôi mượn
của Ermson trong đoạn cuối
thiên tuỳ bút 'Tự tín' của ông:
Khi ta thắng trến đường chính
trị, khi lợi tức của ta tăng
lên, khi ta bết bịnh, mạnh trở
lại, hay có bạn đi xa trở
về, hoặc gặp một hoàn
cảnh thuận tiện nào, những lúc
đó ta thấy tinh thần phấn
khởi và ta nghĩ rằng ngày vui
sắp tới. Không, xin đừng tin
vậy. Không thể như vậy
được. Trừ ta ra, không một
ai mang lại sự b́nh tĩnh cho tâm
hồn ta đâu.
Epictète sống cách ta 19 thế
kỷ, mà y học ây giờ cũng
phải nhận lời ấy là đúng.
Theo bác sĩ G. Canby Robinson th́ trong năm
người bệnh nằm ở nhà thương
John Hopkins, có bốn người đau v́
lao tâm, ưu tư quá. Không phải
chỉ nhữn bệnh tinh thần
mới có nguyên do ấy đâu, cả
những bệnh hoàn toàn về thể
hất cũng vậy. Ông nói: Nhưng
bệnh này thường khi do người
đau không biết làm cho đời
sống của ḿnh thích nghi với
những vấn đề thực
tế'.
Montaigne Michel Eyquem de (1533-1592), một
triết gia trứ danh ở Pháp, dùng câu
này làm châm ngôn: 'Loài người
đau khổ, do hoàn cảnh th́ ít mà do
ư niệm là nhiều'. mà ư
niệm đó hoàn toàn tuỳ thuộc
ta.
Như vậy nghĩa là ǵ? Có phải tôi
dă dám cả gan nói trắng với các
bạn rằng: Khi bị ưu tư
đè nghiến và đầu óc rối
như tơ ṿ th́ bạn chỉ cần
có nghị lực một chút là tâm
trạng của bạn hoàn toàn thay đổi
đi không? Phải, chính tôi muốn nói
vậy đó! Mà chưa hết đâu. Tôi
c̣n sắp chỉ cho bạn một bí
quyết nữa. Phải khó nhọc
một chút, nhưng bí quyết này cũng
rất giản dị.
'William James, nhà tâm lư thực hành uyên thâm
nhất thế giới, đă nhận
thấy rằng: 'hành động có
vẻ như theo sau tư tưởng, nhưng
sự thực th́ cả hai cùng đi
với nhau. Và khi chúng ta chế định
hành đồng th́ chúng ta có thể
chế định tư tưởng
một cách gián tiếp được'.
Nói một cách khác, William James bảo
rằng không thể chỉ dùng ư chí
để cảm xúc mà cảm xúc thay
đổi ngay được, nhưng chúng
ta có thể thay đổi những hành
động và mọt khi hành động
thay đổi th́ tự nhiên tư tưởng
cũng đổi thay ngay.
Ông giảng thêm: 'Như vậy, nếu
mất sự vui vẻ mà muốn
chuộc lại th́ cách chắc chắn
nhất có thể làm được là
tỏ ra một thái độ vui vẻ,
và hành động, nói năng như là
sự vui vẻ đă tới rồi'.
Cái thuật giản dị đó thành công
chăng? Thành công thần diệu! Xin
bạn thử đi. Thử hăy mở
miệng ra cười lớn hăy hồn
nhiên vui vẻ, hăy ưỡn ngực hít
một hơn dài rồi ca lên một khúc,
nếu không ca được th́ huưt sáo,
nếu không huưt, nếu không ca được
th́ huưt sáo được th́ ngâm nga.
Bạn sẽ thấy liền- như
William James nói- rằng tinh thần không
thể nào buồn ủ rũ khi hành
động tỏ một nỗi vui chói
lọi.
Đó là một chân lư căn bản
khả dĩ thay đổi nhiệm
mầu cuộc sống của ta
được. Một người đàn
bà ở Californie mà tôi xin giấu tên,
nếu biết bí quyết ấy th́
chỉ nội trong 24 giờ là gột
hết nỗi lầm than khổ sở
của ḿnh... bà ấy già và goá- cản
ấy buồn thiệt - nhưng bà có rán
hành động như người vui sướng
không?. Không. Nghe bạn hỏi có đau
khổ ǵ không, th́ bà đáp: 'Không, không
có ǵ cả'. Nhưng bét mặt và
giọng rên rỉ kia thiệt như
muốn nói 'Trời ơi! Nếu ông
thấu được nỗi đau
đớn của tôi!'.
Bà có vẻ trách bạn sao lại sung sướng
trước mặt bà. Cả trăm người
đàn bà c̣n khổ hơn hà nhiều:
Số tiền bảo hiểm về nhân
mạng của ông chồng để
lại đủ cho bà an nhà tới
chết vả chăng ba người con gái
đă thành gia đàng hoàng cũng
rất dư sức đón bà về nuôi.
Nhưng ít khi tôi thấy bà mỉm cười
lắm. Bà kêu ca rằng cả ba chàng
trể đều hà tiện và ích
kỷ - mặc dầu mơi lanaf lại chơi,
bà ở nhà họ hàng thắng. Bà
lại phàn nàn ràng lũ con gái không bao
giờ qua cáp ǵ cho bà hết- mà chính bà
cứ ôm khư khư túi tiền của
ḿnh 'để dưỡng già'. Bà
thiệt là một tai nạn cho chính thân
bà và cả gia đ́nh vô phước
đó nữa. Mà có ǵ bắt buộc bà
như vậy không? Điều đáng thương
tâm là nếu muốn th́ bà có thể
tự đổi tánh từ một người
khốn nạn, khổ sở, cay độc,
bà trở thành ra một người
mẹ được chiều chuộc kính
trọng. Muốn thế bà chỉ
cần bắt đầu có những
cử chỉ vui vẻ như để
phân phát t́nh yêu cho con cái mà đừng
phí tâm nghĩ tới nỗi khổ để
tự làm cho đời ḿnh thêm chua xót.
Một người ở ấn Độ,
ông H.J. Englert, sở dĩ đến nay c̣n
sông slaf nhờ tự t́m được
bí quyết ấy. Mười năm trước,
ông Englert lên sởi và khi bệnh này
khỏi th́ biến chứng thận viêm
(sưng thận) chữa đủ các
thầy, cả những 'lang băm'
nữa, mà không hết.
Rồi ít lâu sau, lại biến ra
nhiều chứng khác. áp dụng củ
machj máu tăng lên. Một bác sĩ nói
với ông rằng áp lực ấy đă
tới độ rất cao, nguy hiểm
tới tánh mạng, mà sẽ c̣n tăng
nữa, cho nên tốt hơn là hăy
gấp gấp thu xếp việc nhà đi.
ÔNg Englert nói: 'Tôi về nhà, soát lại
xem đă trả đủ tiền
bảo hiểm nhân mạng chưa,
cầu trời tha thứ cho những
tội lỗi từ trước, rồi
chỉ nghĩ tới cái chết. Thế
là tôi đă làm cho những người
xung quanh khổ sở. Vợ con tôi khóc lóc
mà tôi th́ càng bị vùi sâu vào cảnh
thất vọng. Nhưng sau một
tuần khóc lóc than thở cho thân ḿnh,
toi tự nhủ: 'Ḿnh hành động như
thằng điên. Có lẽ c̣n sống
được một năm nữa sao không
rản hưởng cho vui hết đời
đi đă?'Tôi ưỡn ngực lên,
mỉm cười rồi rán hành động
như người khỏe mạnh. Ban
đầu có khó thiệt, song tôi
gắng sức tỏ ra dễ dăi, vui
vẻ và như vậy chẳng những
không dễ chịu cho gia đ́nh mà
cả cho tôi nữa.
'Tôi nhận thấy điều này trước
hế là tôi bắt đầu cảm
thấy khoẻ khoắn hơn, gần
được như ư muốn. Bệnh
tiếp tục giảm, và đáng lẽ
cuống hố từ lâu rồi chứ,
tôi lại sung sướng, mạnh lên, và
áp lực của mạch máu cũng
hạ xuống. Chắc chắn có điều
này: Nếu tôi cứ nghĩ rằng
thế nào cũng 'chết' th́ lời bác
sĩ tiên đoán sẽ thành sự
thực. Nhưng tôi đă thay đổi
thái độ tinh thần để giúp
cơ thể tôi tự tin lấy căn
bệnh'.
Xin bạn cho tôi hỏi một câu:
Nếu những hành động vui vẻ
và những tư tưởng tích cực
về sức khoẻ và can đảm
đă cứu sống người ấy,
th́ tại sao bạn và toi, chúng ta c̣n có
thể nỗi ưu tư hắm ám
của ta kéo dài thêm một phút nữa làm
chi? Tại sao lại bứt chân thân ta và
những người chung quanh phải
khổ sở, phiền muộn, khi chúng
ta có thể chỉ hành động
một cách vui vẻ là đủ tạo
được hạnh phúc?
Đă lâu rồi, tôi đọc một
cuốn sách của Janes Lane Allen. Nó đă
ảnh hưởng sâu xa và lâu bền
tới đời sống của tôi.
Cuốn ấy nhan đề: 'Tư tưởng
của một người' có đoạn
này:
'Ai cũng thấy rằng nếu ta thay
đổi ư nghĩ của ta về nghĩa
khác và mọi vật th́ người khác
và mọi vật cũng sẽ thay đổi
với ta... Khi một người thay
đổi hoàn toàn những ư nghĩ
của ḿnh th́ người ấy sẽ
ngạc nhiên thấy những mau chóng. Ta
hấp dẫn cái ǵ giống ta chứ không
hấp dẫn cái ǵ ta cần... Vận
mạng của ta ở trong tay ta, chính
ở trong tay ta... Tất cả những cái
ta làm nên là kết quả trực
tiếp của tư tưởng...
Chỉ có nâng cao tư tưởng
mới có thể thành công và tiến
được thôi'.
Tôi chỉ cần làm chủ được
tôi, làm chủ được tư tưởng
của tôi, làm chủ được
nỗi sợ sệt lo lắng của tôi,
làm chủ được đầu óc và
tinh thần cảu tôi. Và tôi biết
rằng lúc nào tôi cũng có thể đạt
được sự tự chủ
ấy tới một mực tuyệt cao,
bằng cách chế ngự những hành
động của tôi để những
hành động đó chế ngự
lại những phản ứng của tôi.
Vậy chúng ta nên nhớ lời sau
nầy của William James:
'Một phần lớn cái mà ta gọi là
hoạ... có thể đổi làm phước
lành. Muốn vậy chỉ cần thay
đổi thái độ tinh thần,
đứng đau đớn lo sợ
nữ mà hăy hăng hái đấu tranh'.
Chúng ta hăy tranh đấu cho hạnh phúc
của chúng ta!
Tranh đấu cho hạnh phúc của chúng
ta bằng cách theo một chương tŕnh
hằng ngày để có thể có
những tư tưởng vui vẻ và
kiến thiết. Chương tŕnh đó
do ông Sibyl F. Partige đă viết ra 36 năm
trước, nhan đề là: 'Ngày hôm
nay'. Tôi thấy nó gây nhiều cảm
hứng đến nỗi tôi đă phân
phát nó ra hàng trăm bản.
Nếu bạn và tôi theo đúng, chúng ta
sẽ bỏ được phần
nhiều những ưu tư và làm tăng
lên vô cùng cái mà người Pháp gọi
là 'Sự vui sống'.
+++
Ngày hôm nay
1-Ngày hôm nay tôi sung sướng. Nó như
vậy tức là nhận với Abraham
Lincoln rằng: 'Phần nhiều chúng ta
cho ḿnh là súng sướng ra sao th́
sẽ sung sướng như vậy'.
Hạnh phúc do tâm khảm chứ không do
ngoại giới.
2- Ngày hôm nay tôi sẽ thuận theo hoàn
cảnh chứ không bắt hoàn cảnh
phải thuận theo ư muốn của tôi.
3-Ngày hôm nay tôi chăm nom đến thân
thể tôi. Tôi luyện nó, săn sóc nó,
bồi dưỡng nó chứ không làm nó
phí sức hoặc bỏ phí nó, như
vậy nó sẽ là một cái máy hoàn toàn
để tôi sai khiến.
4-Ngày hôm nay tôi sẽ rán bồi bổ
tinh thần. Tôi sẽ học một cái
ǵ có ích. Tôi sẽ không lười nghĩ
nữa. Tôi sẽ đọc loại sách
cần phải gắng sức suy nghĩ
và chú ư mới hiểu được.
5-Ngày hôm nay tôi sẽ luyện tinh
thần theo hai cách: Tôi sẽ giúp ích
một người nào đó mà đừng
cho hay. Tôi sẽ theo William James, làm ít
nhất là hai việc mà tôi không muốn
làm để rèn chí.
6- Ngày hôm nay tôi sẽ vui tính. Sẽ
tất tươi tỉnh, ăm mặc
chỉnh tề, nói nhỏ nhẹ, cử
chỉ nhă nhặn, rộng răi lời
khen mà không cần chỉ trích ai hoạc
chê bai cái ǵ hết.
7- Ngày hôm nay sẽ rán sống từng ngày
một, này nào chỉ biết công
việc ngày ấy, chứ không một lúc
ôm lo cho cả đời ḿnh. Cứ
mỗi ngày chỉ làm việc 12 giờ
th́ suốt đời tôi cũng sẽ làm
được nhiều việc lắm
rồi.
8-Ngày hôm nay tôi sẽ có một chương
tŕnh. Tôi sẽ viết lên giấy công
việc sẽ làm trong mỗi giờ. Có
thể rằng tôi không theo đúng chương
tŕnh ấy nhưng tôi cũng phải
lập nó. Nhờ có nó tôi sẽ tránh
được hai nạn này là: hấp
tấp và do dự.
9- Ngày hôm nay tôi sẽ dành riêng cho tôi
nửa giờ b́nh tĩnh và nghỉ ngơi.
Trong nửa giờ ấy, thỉnh
thoảng tôi sẽ nghĩ đến
một chút viễn cảnh trong đời.
10- Ngày hôm nay tôi sẽ không lo sợ
nữa và quả quyết vui sống,
yếu mến mọi người, hưởng
cái Mỹ và tin chắc rằng những
người tôi yêu sẽ yêu tôi. Nếu
chúng ta muốn bồi dưỡng
một tâm trạng để được
yên vui th́ chúng ta phải theo quy tắc
số một này:
Tư tưởng và hành động
một cách vui vẻ, rồi ta sẽ
thấy vui vẻ
|
13- Bảy cách
luyện tinh thần để được
thảnh thơi
Mấy năm trước
người ta bảo tôi trả lời câu
hỏi nầy trên đài phát thanh: 'Bài
học quan trọng nhất bạn đă
học được là bài nào?'.
Dễ trả lời lắm: đó là bài
học chỉ cho tôi sự quan trọng
của ư nghĩ. Biết bạn nghĩ
điều ǵ, tôi sẽ đoán
được bạn ra sao. Tư tưởng
ta xếp đặt cuộc đời và
quyết định tương lai ta.
Emerson nói: 'Suốt ngày ta nghĩ sao th́ ta
cư xử vậy'... Tất nhiên
thế, không thể khác được.
Bây giờ tôi tin chắc không mảy may
ngờ vực, rằng vấn dề quan
trọng nhất và gần như là độc
nhất - mà bạn và tôi phải
giải quyết là chọn những tư
tưởng chánh trực. Làm được
vậy chúng ta đă đi vào con
đường chính mà giải quyết
được hết thảy những
nỗi khó khăn. Marc Aurèle, đại
triết gia và Hoàng đế của
Đế quốc La Mă. Tóm tắt ư
ấy trong câu này- một câu quyết
định được vận
mạng con người: 'Tư tưởng
của ta ra sao th́ đời của ta là
như vậy'.
Phải, nếu ta có những tư tưởng
vui vẻ th́ đời ta sẽ sung sướng,
có những tư tướng hắc ám
th́ đời ta khốn khổ, có
những ư nghĩ sợ sệt th́ ta
sẽ sợ sệt. nếu ta nghĩ
tới đau ốm th́ ta sẽ đau
ốm, nghĩ đến thất bại
th́ chắc chắn sẽ thất
bại. C̣n nếu ta cứ tự vùi ta vào
những lời than thân trách phận th́
mọi người ắt sẽ tránh ta.
Norman Vincent pale nói: Không phải tự cho
ta là người thế nào th́ ta là
ngừơi thế ây, nhưng ta suy nghĩ
làm sao th́ thái độc của ta là
vậy'.
Nói thế có phải là tôi bênh vực
một thái độc vô tư lự trước
tất cả những nỗi khó khăn
không? Không. V́ chẳng may, đời
lại không giản dị thế đâu.
Nhưng tôi muốn bênh vực một thái
độ tích cực, đừng tiêu
cực. Nói một cách khác, chúng ta
cần chú ư đến nỗi khó khăn
song đừng lo lắng. Chú ư với lo
lắng khác nhau ra sao? Tôi xin giảng:
Mỗi lần đi ngang qua một con
đường đông nghẹt xe cộ
ở Nữu Ước, tôi phải để
ư đến cử động của tôi,
nhưng tôi không lo. chú ư nghĩa là
nhận rơ t́nh trạng khó khăn,
rồi b́nh tĩnh tiến tới để
thắng nó. Lo lắng tức là quay
cuồng một cách điên khùng và vô ích.
Ta có thể chú ư tới những vấn
đề nghiêm trọng của ta mà
vẫn thẳng người tiến bước
với một bông cẩm chướng
ở khuyết áo được. Tôi
đă thấy Lowell Thomas có thái
độ ấy. Một lần, tôi
được cái vinh dự hợp tác
với Lowell Thomas để tŕnh bày
những phim tài liệu về những
trận giữa ALLenby và Lawrence trong
chiến tranh thứ nhất. Ông và
những người giúp việc đă
quay phim trên năm, sáu mặt trận,
thứ nhất là quay được
một phim phóng sự về T E.Lawrence cùng
đội binh ả rập của ông này
một phim về quân đội Allenby xâm
chiếm Thánh địa (Jerusalem). Bài
diễn văn cuả Lowell Thomas để
giảng hai khúc phim đó, đầu
đề là: 'Theo gót Allenby ở Palestine
và Lawrence ở Arap', được hoan hô
ở Luân Đôn và khắp thế
giới. Rạp hát Covent Garden. Sau
những thành công rực rỡ đó
tới những thành công khác trong một
cuộc Châu du khắp hoàn cầu.
Rồi ông bỏ ra hai năm để
sửa soạn một phim phóng sự
về đời sống ở ấn
Độ và Afghanistan. Nhưng sau một
chuỗi rủi ro không tả được,
điều bất ngờ này liền
xảy ra: Ông trở về Luân Đôn,
hoàn toàn phá sản. Lúc ấy tôi ở
chung với ông. Chúng tôi ăn phải món
rẻ tiền trong những hàng cơm b́nh
dân. Nếu chúng tôi không mượn
được tiền của một
nghệ sĩ trứ danh là James Mc. Bey th́
chúng tôi đă phải nhịn đói.
Và đây là điều tôi muốn
kể: Cả trong khi Lowell Thomas nợ như
Chúa Chổm và thất vọng chua chát,
ông cũng chỉ suy tính chứ không lo
lắng. Ông biết rằng nếu
thất vọng đè bẹp th́ ông thành
một người vô ích, vô ích cả
cho cả chủ nợ của ông
nữa. Cho nên mỗi buổi sáng, trước
khi đi xin việc, ông mua một bông
cẩm chướng, gài vào khuyết áo
rồi lanh lẹ xuống đướng
Oxford, thẳng người ưỡn
ngực mà bước. Ông nghĩ tới
những tư tưởng tích cực,
can đảm và không chịu để
thất bại đè bẹp ông. Đối
với ông th́ trong ṣng đời, bị
quất nặng tức là được
huấn luyện. Vậy thiếu sự
huấn luyện đó tất không sao bước
lên bậc thang chót vót của xă hội
được.
Thái độc tinh thần ảnh hướng
một cách rất sâu xa, gần như khó
tin, đến cả thể lực
nữa.
Ông J.A Hadfied,
nhà trị bệnh thần kinh nổi danh
nước Anh, trong cuốn 'Tâm Lư
của quyền lực' đă chứng
minh điều ấy một cách rơ ràng.
Ông viết: 'Tôi bảo ba người làm
những trắc nghiệm để xem ám
thị về tinh thần ảnh hưởng
tới thể lực họ ra sao. Thể
lực đó, tôi đo bằng một máy
lực kế (dynamomètre) mà tôi bảo
họ bóp hết sức mạnh. Việc
ấy họ làm trong ba hoàn cảnh khác
nhau.
Lần đầu họ bóp lực
kế trong điều kiện thông thường.
Trung b́nh thể lực của họ là
50 kí lô rưỡi.
Lần thứ nh́ thôi miên họ, thế
rồi bảo họ rằng họ
yếu lắm, cho nên họ chỉ bóp
được 14 kí lô rưỡi thôi,
nghĩa là không bằng một phần ba
sức thiệt của họ. ( Một
trong ba người là một nhà đấu
quyền chuyên nghiệp; trong khi bị thôi
miên người ấy thấy tay h́nh như
'mảnh khảnh đi, y như tay con nít').
Lần thứ ba cũng thôi miên họ,
nhưng bảo họ rằng họ
mạnh, th́ họ có thể bóp
được 71 kí lô. Vậy khi óc
họ đầy những ư nghĩ tích
cực về sức mạnh, th́ thể
lực của họ tăng được
gần 50%.
Năng lực của thái độ
tinh thần ghê gớm vậy đó.
Tôi xin kể một chuyện lạ lùng
vào hạng nhất trong lịch sử Huê
Kỳ để bạn thấy năng
lực mầu nhiềm của tư tưởng.
Có thể tôi viết tất cả
một cuốn sách về chuyện
ấy được, nhưng đây toi
xin tóm tắt lại. Một đêm
lạnh lẽo về tháng mười, ít
lâu sai khi Nam Bắc chiến tranh kết
liễu, có người đàn bà nghèo
đói lang thang, thất thơ thất
thểu trên đường đời, tên
gọi Glover đến Amesbury. Đến
đây bà ta gơ cửa nhà bà vợ goá
một vị chỉ huy thương
thuyền là bà Webster.
Mở cửa ra, bà Webster thấy một
thân h́nh nhỏ bé, ốm o, 'chỉ c̣n xương
với da không đầy 50 kí lô, trông ghê
sợ'.
Nhưng bà Glover đă lên tiếng
muốn kiếm một chỗ ở để
có thể b́nh tĩnh suy nghĩ và
lập một chương tŕnh quan
trọng nó làm cho bà ta say mê đêm ngày.
Bà Webster đáp: 'Vậu bà ở chung
với tôi. Nhà rộng mà tôi ở có
một ḿnh'.
Bà Glover có thể suốt đời chung
đụng với bà Webster được,
nếu không có chàng rể bà này là anh
Bill Ellins vốn ở Nữu Ước
về nghỉ ngơi tại đó.
Thấy bà Glover, anh ta la: 'Tôi không
muốn chứa quân lang thang'. Và đuổi
người đàn bà không nhà ấy ra
cửa. Mưa như trút nước, bà
Glover đứng run cầm cập
giữa trời trong vài phút rồi
kiếm chỗ trú chân.
Đây mới là đoạn lạ lùng
trong câu chuyện. Người dàn bà lang
thang mà Bill Ellis đuổi đi đó
hiện nay có hàng triệu tín đồ
biết tên hiệu bà là Mary Baker Eddy,
người sáng lập ra 'Cơ
Đốc Khoa học'.
Vậy mà khi chuyện ấy xảy ra bà
chưa biết ǵ về đời
hết, ngoài bệnh tật, lo lắng và
sầu thảm. Người chồng
thứ nhất của bà mới cưới
được ít lâu th́ chết. Người
chồng thứ nh́ bỏ bà đi theo
một người khác đă có
chồng, rồi chết trong cảnh nghèo
khổ. Bà chỉ có mỗi một
mụn con trai, mà v́ túng thiếu, đau
ốm và ghen tuông, bà phải cho người
khác nuôn khi nó mới bốn tuổi.
Từ đó không có tin tức ǵ về
con hết, 31 năm không được
thấy mặt nó một lần
|
14- Hiềm thù
rất tai hại
Hiềm thù rất
tai hại và bắt ta trả một giá
rất đắt
Đêm kia, trong một cuộc du lịch,
tôi có ghé thăm công viên Quốc gia
ở tỉnh Yellowstone. Tôi ngồi trên
khoảng đất cao, trước
một khu rừng thông rậm rạp cùng
với một số khách du lịch khác.
Bất thần, một con gấu xám
Bắc Mỹ,- mối kinh hoảng
của rừng thẳm - bỗng xuất
hiện dưới ánh đèn pha và
bắt đầu nghiến ngấu
những khúc thịt vụn do nhà bếp
Công viên vứt ra đó. Viên kiểm lâm
ngôi trên ḿnh ngựa, gần những du
khách, liền vui miệng kể cách sinh
sống của các giống gấu,
nhất là gấu Bắc Mỹ này. Ông
ta cho chúng tôi hay rằng nó là giống
vật khoẻ nhất Tây Bán Cầu, ngoài
trông giống trâu và, có lẽ, ngoài
giống gi gấu Kadiak. Thế mà,
tối đó, tôi lại thấy chú
gấu Bắc Mỹ để cho một
con này ăn cùng con nữa: con chồn.
Cố nhiên con gấu biết rằng
chỉ có một cái tát là con chồn
sẽ nát như tương. Tại kinh
nghiệm bảo nó biết rằng làm như
vậy chẳng ích lợi ǵ.
Chính tôi cũng đă có lần nhận
định điều ấy. Hồi c̣n
là đứa nhỏ chạy rong trên các
cánh đồng cỏ xứ Misssouri, tôi
thường bắt được
giống chồn bốn chân; và khi trưởng
thành, đôi khi tôi cũng gặp một
vài con chồn 'hai chân' lẩn lút trong các
phố Nữu Ước. Kinh nghiệm lâu
đời và chua cay đă dạy tôi
rừng hai giống chồn, bốn chân cũng
như hai cẳng, chẳng đáng cho ta
bận ư.
Khi ta thù oán, tức là ta đă cho họ
dịp ảnh hưởng đến
đời ta: ảnh hưởng đến
giấc ngủ, đến cái thú ăn,
đến tiền tiềm lực, đến
sức khoẻ và sự yên tĩnh trong
tinh thần của ta. Bọn cừu nhân
chỉ cần biết chúng đă làm ta
phải băn khoăn, phải bứt
rứt là nhẩy lên v́ sung sướng.
Ta thù oán chúng, chắc chắn là
chẳng làm cho chúng đau đơn chút
nào, mà trái lại làm cho đời là luôn
luôn thành ác mộng.
'Nếu những kẻ ích kỷ t́m cách
lừa dối bạn, thấy bạn
tử tế lại làm quá, thấy
bạn tin lại lừa đảo, th́
bạn đứng giao du với chúng
nữa, coi chúng như không có, nhưng
chớ nên t́m cách trả đũa
lại,. Khi bạn nghĩ cách để
trả thù tức là bạn đă tự
làm ḿnh đau đớn hơn là làm
đau đỡn kẻ bạn định
tâm hại'. Theo ư bạn th́ lời
lẽ đó của ai mà không ngoan
được thế? Chắc lại
của một người theo duy tâm
luận, nói dựng đứng như nhà
tiên tri phải chăng? Thưa không. Tôi
đă đọc những câu ấy trong
một tờ thông tri của công ty
Cảnh sát Milwaukee.
Thử hỏi tại sao ư muốn
'trả đũa' lại có hại cho
bạn? Theo tờ tạp chí 'Life' th́
muốn đó có thể làm sức
khoẻ bạn phải vĩnh viễn suy
nhược. Tác giả một bài
đăng trong tờ 'Life' có viết
rằng: 'Tính xấu đặc biệt
thường thấy trong số những
người đau bệnh động
mạch là tính thù vặt. Khi tính xấy
này luôn luôn biểu lộ, nó sẽ làm
cho bệnh ấy thành kinh niên và có khi thành
bệnh đau tim'.
Tôi có một người bạn thân
vừa đây bị một cơn đau
tim kịch liệt. Thầy thuốc
bắt anh ta phải tĩnh dưỡng và
nhất là không được nổi nóng
với bất cứ một cớ nào, v́
lẽ thầy thuốc nào cũng
biết rằng người đau tim
rất có thể chết bất thần
khi nổi giận . Chắc bạn
chẳng cho là thật? Tôi xin kể
một chứng minh. Cách đây mấy năm,
một ông chủ hàng cơm tỉnh
Spokane, thuộc tiểu bang Washington, đă
ngă đùng ra chết sau một cơn
thịnh nộ. Đây là bài tường
thuật của viên cảnh sát trưởng,
mô tả trường hợp xảy ra
tai nạn: 'Ông William Falkaber 68 tuổi,
chủ một tiệm ăn, đă
tự giết ḿnh khi đang nổi
giận v́ người bếp không nghe
lời ông mà cứ uống cà phê trong
đĩa chứ không uống bằng tách.
Ông ấy nổi khùng vác súng lục
đuổi người bếp, rồi
bỗng ông ngă vật ra chết
thẳng, tay hăy c̣n nắm chặt
khẩu súng. Viên y sỹ nhà nước
đến khám nghiệm tử thi, tuyên
bố ông đứt mạch máu v́
'thịnh nộ'.
Các bạn cũng như tôi, ai cũng
đă có lần thấy bộ mặt
đàn bà khắc khổ v́ giận
dữ, hay biến tướng v́ thù oán.
Không một mỹ viện nào ở
thế gian lại có thể chữa
những bộ mặt này, trừ một
trái tim đầy hỉ xả, đầy
t́nh thương yêu nhân loại.`
Sự thù oán không những làm tinh
thần mất b́nh tĩnh, mà c̣n
giết từ hương vị của
đời sống đến những thú
vui nhỏ nhặt nhất như ăn
một bữa cơm ngon. 'ăn một
đĩa rau mà vui vẻ, c̣n hơn là
ăn cả một con ḅ quay có hương
vị của oán thù'.
Bạn không biết rằng kẻ thù
của ta sẽ xoa tay sung sướng khi
biết v́ tức giận họ mà ta cáu
kỉnh, héo hắt, kém sắc, đau tim
và rất có thể sẽ giảm
thọ sao?
Nếu ta không thể yêu được
kẻ thù, làm tốt cho họ, th́ ít ra
ta cũng phải lấy ta chứ? Ta
phải yêu ta, khiến họ không
thể làm chủ hạnh phúc sức
khỏe và những nét răn trên mặt
ta được chứ?
Tôi muốn kể ra đây một
bức thư của ông Georrge Rona,
hiện ở tỉnh Upsala, thuộc
Thuỵ Điển. ông ta trước kia
làm trạng sư tại tỉnh Vienne và
đến ngày quân đội QUốc xă
sang xâm lăng Áo, ông trốn sang Thuỵ
Điển. V́ số tiền lương
mang được theo quá ít ỏi, ông
đành phải t́m việc làm. V́
viết và nói thông thạo nhiều
thứ tiếng nên ông hy vọng sẽ
kiếm được việc trong
một hăng xuất cảng. Nhưng
đơn đưa vào đâu th́
phần nhiều đó đều trả
lời rằng, trong thời kỳ
chiến tranh, người ta không thể
thu nhận một thư tiến viên
ngoại quốc, tuy nhiên họ cũng
ghi tên và sẽ gọi đến ông,
nếu cần... Trong khi đó, một thương
gia gởi cho ông George Rona lá thư sau
đây: 'Những ư nghĩ của ông
về công việc của tôi, hoàn toàn
sai lầm và có phần lố bịch
nữa. Trước hết, tôi xin nói
rằng, tôi cũng chẳng mướn
ông, bởi v́ ông không viết nổi
một bức thư bằng tiếng
Thuỵ Điển cho đúng mẹo.
Chứng cơ là bức thư của ông
đầy những lỗi vậy'.
Khi đọc bức thư phúc đáp
ấy, ông ta tức uất người.
Cái lăo Thuỵ Điển này có
quyền ǵ mà dám mắng ông dốt!
Lại tức hơn nữa là chính thơ
của lăo cũng đầy những
lỗi! Ông Rona lập tức lấy
giấy bút ra viết gởi cho lăo
một bài học. Nhưng sau nghĩ
lại, ông tự nhủ: 'Kể cũng
phải, làm sao ḿnh biết được
lăo này nói vô lư? Ḿnh có học tiếng
Thuỵ Điển, nhưng đâu
phải là tiếng mẹ đẻ
của ḿnh! Như vậy rất có
thể ḿnh viết sai mà không biết.
Tốt hơn ḿnh nên học thêm
tiếng này rồi t́m chỗ khác
vậy. ấy thế lăo đó đă vô
t́nh bảo ḿnh cũng phải cảm
ơn lăo. Phải đấy, ḿnh đi
viết thơ cám ơn lăo ta mới
được'.
|
15- Hăy ban ơn và hăy
tỏ ḷng biết ơn
Nếu bạn làm đúng
theo đây th́ không bao giờ bạn c̣n
buồn về ḷng bạc bẽo của
người đời
Mới rồi tôi gặp mọt thương
gia ở Texas, đang ngùn ngụt ḷng
uất hận. Có người cho hay
rằng 15 phút sau khi ông gặp ta, tôi
sẽ được ông ta kể lể
đầu đuôi cho nghe. Quả như
vậy. Câu chuyện làm cho ông giận
dữ đă xảy ra 11 tháng trước,
nhưng mỗi khi nhắc lại ông c̣n
bừng bừng lên. Ông không thể quên
nó được. Ngày lễ Giáng Sinh ông
đă thưởng 34 người giúp
việc một số tiền là mười
ngàn Mỹ kim - mỗi người
khoảng 300 mỹ kim- mà không một người
nào cảm ơn ông hết. Ông chua chát
phàn nàn: 'Tôi ân hận đă thưởng
họ. Thiệt một xu cũng không
đáng'.
Khổng Tử nói: 'Một người
giận luôn luôn đầy những
chất độc'. Vị thương
gia kia đầy những chất độc
đến nỗi tôi thành thực thương
hại ông. Ông khoảng lục tuần mà
các hăng bảo hiểm nhân mạng tính
rằng trung b́nh chúng ta c̣n được
sống khoảng 2/3 thời gian từ bây
giờ cho đến khi ta c̣n 80 tuổi.
Vậy ông ta có may mắn th́ sống dược
khoảng 14 năm nữa thôi. Thế mà
chỉ do một chuyện đă qua, ông
đă làm phí gần hết một năm
v́ những oán giận mỉa mai.
Thật đáng thương hại!
Đáng lẽ oán hận và thương
thân trách phận như vậy, ông nên
tự hỏi tại sao ông không
được các người làm công
cảm ơn. Có thể v́ ông trả lương
họ quá ít và bắt họ làm
nhiều quá. Có thể họ nghĩ
rằng tiền thường trong ngày
lễ giáng sinh không thiệt phải là
tièn thưởng mà chính là một
thứ tiền công. Có thể rằng ông
hay bắt bẻ quá không ai dám lại
gần, nên không ai dám nghĩ tới
sự cảm ơn chủ. Cũng có
thể họ cho rừng sở dĩ ông
thưởng họ v́ nếu không thưởng
th́ số lời cũng phải đem
đóng thuế gầ hết thôi.
Về phương diện khác, các người
làm công có thể là ích kỷ ti tiểu
và thiếu giáo dục. Có thể như
thế kia, có thể như thế
nọ. Về đièu ấy tôi cũng không
biết ǵ hơn bạn. Nhưng tôi
biết rằng bác sĩ Samuel Jonhson nói:
'Ḷng biết ơn là kết quả
của một giáo dục cao đẹp.
Hạng thô lỗ không có đức
ấy'.
Tôi muốn nói: Ông già ấy đă có
một lỗi lầm lớn chúng cho
cả nhân loại là quá tin ở ḷng
biết ơn của người khác. Ông
thực sự không biết rơ bản tính
con người.
Nếu bạn cứu được
một mạng người, bạn có
mong người đó tỏ ḷng mang
ơn bạn không? Chắc có. Ḱa, Samuel Leibowitz,
trước làm luật sư, sau làm toà,
đă cứu được 78 người
khỏi lên máy điện. Vậy
bạn thử đoán có bao nhiêu kẻ
thoát chết ấy đă cảm ơn ông
ta hoặc chịu khỏ gởi cho ông ta
một bức thiệp chúc năm
mới? Bao nhiêu? bạn đoán đi...
Đúng, đúng như vậy - Không có
một người nào hết.
Về vấn đề tiền bạc cũng
vậy, đừng hy vọng ǵ hơn. Charles
Schwab nói với tôi có lần ông đă
cứu một người giữ
tiền ở ngân hàng. Người này
thụt két lấy tiền đầu cơ.
Ông phải bỏ tiền riêng trả ngân
hàng đó để y khỏi ngồi tù.
Y có mang ơn ông không? Có, nhưng không lâu.
Rồi y trở lại phản ông,
tố cáo ông, nói xấu ông, người
đă cứu y khỏi khám.
Nếu như cho một người bà
con một triệu mỹ kim, bạn có
mong người ấy mang ơn bạn không?
Chính Andrew Carnegie đă làm việc
ấy. Nhưng nếu Andrew sống
lại sau khi chết ít lâu, ông sẽ
bất b́nh thấy người bà con
đó thoá mạ ông. Tại sao? Tại
'lăo Andrew sống lại sau khi chết ít
lâu, ông sẽ bất b́nh thấy người
đă cho những hội thiện 365
triệu mỹ kim mà chỉ thí cho bà con
được mỗi một triệu
bần tiện đó thôi' như lời
y nói vậy.
Như vậy đó. Bản tính con
ngời thời nào cũng là bản tính
con người và trong đời bạn,
bạn đừng mong ǵ nó thay đổi
hết. Vậy th́ sao không cứ nhận
nó đi? Tại sao không có óc thực
tế của ông già Marc Aurele,
một vị anh quân hiền triết
nhất của đế quốc La mă.
Một hôm ông ấy viết nhật vào
kư như vày: 'Hôm nay tôi sắp
gặp những kẻ đa ngôn,
những kẻ ích kỷ, tự phụ và
vô ơn bạc nghĩa. Nhưng tôi
sẽ không ngạc nhiên hoặc bất b́nh
v́ tôi không tưởng tượng
được một thế giới
vắng mặt những hạng ấy'.
Lờ đó khôn, phải chăng
bạn? Bạn và tôi cứ cằn
nhằn về ḷng bạc bẽo của
loài người, nhưng lỗi về
ai? Lỗi của bản tính con người
hay lơi ở ta ngu muội, không hiểu
biết bản tính đó. Thôi, đừng
mong ǵ người ta báo ơn ḿnh
hết. Như vậy, nếu may mà
gặp người nào biết ơn ḿnh
th́ phải vui thích biết bao không? C̣n
nếu chẳng may th́ cũng không đến
nỗi thất vọng.
Vậy là cái thứ nhất tôi muốn
diễn trong chương này: Loài người
vong ân là điều rất tự nhiên;
vậy chúng ta cứ mong có người
đáp ơn ta th́ chúng ta sẽ tự rước
lấy nhiều nỗi đau ḷng.
Tôi quen một người đàn bà
ở Nữu ước lúc nào cùng
phản nàn về cảnh cô độc.
Không một thân thích nào muốn lại
gần bà. Điều đó cũng không
lạ. V́ nếu bạn lại thăm th́
bà ta sẽ kể lể hàng giờ cho
bạn nghe đă nuôi nấng gây dựng
các cháu ḿnh ra sao, khi họ c̣n nhỏ. Nào
là hầu hạ chúng khi chúng bị
bệnh ban, bị quai bị, hoặc ho gà;
nào là nuôi nấng chúng hàng năm, nào là
giúp cho một đứa học trường
thương mại, nào là gả
chồng cho một đứa khác.
Mà các cháu có lại thăm bà không? Có,
lâu lâu một lần v́ bổn phận mà!
Nhưng họ sợ giáp mặt bà
lắm. Họ biết rằng tới
đấy th́ phải mất hàng giờ
những lời trách phiền bóng gió, nhưng
lời phàn nàn chua xót, và hàng chuỗi
những tiếng than thở dài v́ số
phận. Và khi thấy không thể trách móc
hay doạ dẫm, đay nghiến để
họ thường hại thăm ḿnh th́
bà 'lên cơn' đau tim.
Bà đau tim thiệt không? Thiệt. Bác sĩ
nói bà đau tim v́ thần kinh bị
chứng hồi hộp và vô phương
chữa cái bệnh do xúc động mà
ra đó.
Bà ta cần được các cháu yêu và
săn sóc, cho như vậy là 'ḷng
biết ơn' , và nghĩ cơ quyền
được nhận ḷng biết ơn
của họ. Nhưng bà lại đ̣i
hỏi ḷng biét ơn ấy nên không bao
giờ các cháu biết ơn và yêu
mến hết.
Có cả ngàn người đàn bà như
bà, có cả ngàn người đau
ốm v́ 'ḷng bạc bẽo' của
kẻ khác. v́ kẻ khác không săn sóc
để họ sống cô độc.
Họ muốn được yêu mến,
song cách độc nhất để
được yêu mến lại là
chớ đ̣i hỏi t́nh yêu mà phải
nói vung nó ra, đừng mong báo đáp.
Bạn cho là lư tưởng quá, là
ảo mộng quá không thi hành được
sao? Không đâu. Điều này chí lư
lắm. Muốn t́m được
hạnh phúc th́ chúng ta phải theo cách
hiệu nghiệm đó. Tôi không biết
chắc vậy v́ tôi đă kinh nghiệm
trong gia đ́nh tôi. Song thân tôi lấy
sự giúp đơ kẻ khác làm vui. chúng
tôi nghèo, lúc nào cũng đeo nợ. Nhưng
mặc dầu cùng túng, song thân tôi luôn
luôn dành một số tiền để
mỗi năm gởi giúp một cô nhi
viện ở Iowa. Không bao giờ các người
lại thăm viện. và có lẽ không
một trẻ em mồ côi nào cảm
ơn hai ân nhân đó cả, trừ
một vài hàng trong thư. Nhưng các người
được đền đáp lại
rất nhiều v́ đă hưởng cái
vui giúp trẻ nhỏ mà không cầu mong
được đền đáp lại.
Khi lớn lên tôi không làm ăn ở xa,
mỗi năm gần tới lễ Giáng
Sinh tôi luôn luôn gởi về ba má tôi
một tấm ngân phiếu và năn
nỉ hai người ăn tiêu cho sung sướng
một chút. Nhưng ít khi hai người
chịu nghe tôi. Lần nào về thăm
nhà vài ngày trước lễ Giáng Sinh th́
tôi cũng được ba tôi kể cho
nghe đă mua than và thức ăn một
người 'Đàn bà goá', đông con mà
nghèo khổ nào ở trong tỉnh. Các người
bố thí như vậy để
được cái ǵ? Được cái
vui đă cho mà không báo đáp một
mảy may ǵ hết.
Vậy đây là cái ư thứ nh́
của tôi trong chương này: Nếu chúng
ta muốn t́m hạnh phúc, th́ đừng
nghĩ tới sự người khác
ơn hay quên ơn ta, mà cứ giúp đỡ
để được cái vui trong thâm
tâm là đă giúp đỡ.
Có lẽ từ 10.000 năm rồi, các
bực cha mẹ đều bứt đầu
bứt tóc v́ nỗi con cái ăn ở
bạc bẽo.
Cả vua Lear trong kịch của Shakespeare
cũng la hét: 'Có đứa con bạc
bẽo thật đau đớn hơn
bị rắn độc cắn!'.
Nhưng con cái ta làm sao biết mang ơn
được, nếu ta không tập cho
chúng như vậy? Ḷng bạc bẽo
mọc tự nhiên như cỏ dại. Ḷng
biết ơn th́ như bông hồng,
phải trồng trọt, tưới bón,
nâng niu, nắng che gió chống.
Nếu con ta bạc bẽo th́ lỗi
về ai? Có lẽ về ta. ta không bao
giờ dạy chúng tỏ ḷng biết
ơn với người khác th́ sao ta
lại mong chúng biết ơn ta?
Tôi quen một người ở Chicago có
nhiều lẽ để phàn nàn về
sự vô ơn của con riêng vợ. Anh
ta làm trong một xưởng đóng thùng,
công việc vất vả và ít khi
kiếm được trên 40 mỹ kim
mỗi tuần. Khi cưới một người
đàn bà goá, anh ta nể vợ, đi
vay mượn để cho mấy đứa
con riêng của chị này vào trường
Trung Học. Có 40 mỹ kim mỗi
tuần mà phải lo ăn mặc,
củi lửa lại lo trả vốn
lời nữa. Bốn năm ṛng như
vậy, cực như trâu, song anh ta không
hề than thở.
Mà mấy đứa con ấy có cảm
ơn anh ta không? Không. Người vợ
cho như vậy là tự nhiên mà mấy
đứa con riêng cũng vậy. Không
bao giờ chúng tưởng tượng
được rằng chúng mang nợ
bố ghẻ chúng. Và cũng không bao
giờ chúng mở miệng cảm ơn
nữa.
Ai đáng trách trong đó? Mấy đứa
con ư? Đă đành; nhưng người
mẹ chúng c̣n đáng trách hơn.
Chị ta nghĩ bắt bọn đầu
xanh ấy nhận thấy mang ơn người
khác là tủi nhục cho chúng. Chị ta
không muốn chúng 'vào đời với
một món nợ ở trên đầu'.
Cho nên không bao giờ chị ta nói: 'Dượng
các con cho các con đi học, thiệt là
ḷng rộng như biển cả'. Trái
lại chị lại có vẻ như nói:
'ồ! ít nhất th́ thẳng cha già
đó cũng phải làm vậy chớ'.
Chị tưởng như thế là thương
con, nhưng sự thiệt chị làm hư
chúng, đẩy chúng vào đời
với cái ư nghĩ nguy hiểm rằng
người đời phải nuôi chúng.
Mà ư nghĩ đó quả đă nguy
hiểm, v́ một trong những đứa
ấy đă thử 'mượn' tiền
chủ để rồi bắt khám
đường phải nuôi.
Chúng ta nên nhớ rẳng chúng ta dạy
con ra sao th́ con ta thành người như
vậy. chẳng hạn đời bà gi d́
tôi là Viola Alexander đă chứng minh
lời đó một cách kiêu ngạo. Không
bao giờ bà phàn nàn về sự bạc
bẽo của con cái. Khi tôi c̣n nhỏ, d́
Viola đưa bà ngoại tôi về nhà săn
sóc, chiều chuộng cùng với bà
mẹ chồng d́. Tôi có thể nhắm
mắt lại mà vẫn thấy hai bà
ngồi làm phiền không? Tôi tưởng
nhiều khi cũng có. Nhưng không bao
giờ d́ tỏ vẻ khó chịu ra nét
mặt. D́ yêu cả mẹ đẻ
lẫn mẹ chồng, nâng niu, phụng dưỡng
làm cho hai bà ở nhà con mà tưởng
như ở nhà ḿnh. D́ phải nuôi
tới sáu ngừơi con, lại
phụng dưỡng thêm hai bà, mà cứ
coi như việc thường, Theo d́,
chẳng có chi là cao thượng đặc
biệt hoặc đang khen hết,
chỉ là việc phải, tự nhiên, nên
d́ mà như vậy thôi.
D́ Viola bây giờ ra sao? D́ đă goá
chồng trền 20 năm và có năm người
con đă trưởng thành ra ở riêng.
Cả năm người tranh nhau rước
d́ về để đển ơn cúc
dục! Họ cùng kính mến mẹ, cùng
phàn nàn rằng mẹ không bao giờ
ở lâu với họ.
Đó là ḷng 'biết ơn' ư? Vô lư!
Đó là t́nh yêu, t́nh yêu trong sạch.
Những người đó trong tuổi
thơ đă được thở
một không khí ấm áp và chói lọi t́nh
ây yếm, nên bây giờ đáp lại ḷng
thương ấy. C̣n ǵ là lạ?
Vậy chúng ta hăy nhớ rằng muốn
cho con cái đừng quên ơn, ta
phải biết nhớ ơn. ta hăy
nhớ rằng 'chúng tuy nhỏ mà tai không
nhỏ' và rất để ư tới
những lời nói của bậc mẹ
cha đó. Chẳng hạn như lần
sau ta có muôn chê ḷng tốt của ai trước
mặt chúng ta, th́ ta hăy ngừng ngay
lại. Đừng bai giờ nói: 'Ngó cái
khăn kỳ cục mà chị Sue gởi
mừng năm mới chúng ta? Chị
ấy đan lấy để khỏi
mất một xu nào hết đây mà'.
Lời chê đó, đối với chúng
ta có thể là rất b́nh thường,
như trẻ con nhớ rất kỹ.
Vậy nên nói như vầy: 'Thử nghĩ
xem, chị Sue đă mất bao công để
đan cái khăn này mằng chúng ta!
Thiệt tốt bụng quá! Phải
viết thơ cảm ơn chị ngay
mới được'. Như vậy con
cái chúng ta sẽ tập nhiễm lần
lần, mà không hay, cái tánh tốt
biết khen và tỏ ḷng mang ơn
Nếu bạn làm đúng
theo đây th́ không bao giờ bạn c̣n
buồn về ḷng bạc bẽo của
người đời
Mới rồi tôi gặp mọt thương
gia ở Texas, đang ngùn ngụt ḷng
uất hận. Có người cho hay
rằng 15 phút sau khi ông gặp ta, tôi
sẽ được ông ta kể lể
đàu đuôi cho nghe. Quả như
vậy. Câu chuyện làm cho ông giận
dữ đă xảy ra 11 tháng trước,
nhưng mỗi khi nhắc lại ông c̣n
bừng bừng lên. ÔNg không thể quên
nó được. Ngày lễ Giáng Sinh ông
đă thưởng 34 người giúp
việc một số tiền là mười
ngàn Mỹ kim - mỗi người
khoảng 300 mỹ kim- mà không một người
nào cảm ơn ông hết. Ông chua chát
phàn nàn: 'Tôi ân hận đă thưởng
họ. Thiệt một xu cũng không
đáng'.
Khổng Tử nói: 'Một người
giận luôn luôn đầu những
chất độc'. Vị thương
gia kia đầy những chất độc
đến nỗi tôi thành thự thương
hại ông. Ôngkhoảng lục tuần mà
các hăng bảo hiểm nhân mạng tính
rằng trung b́nh chúng ta c̣n được
sống khoảng 2/3 thời gian từ bây
giờ cho đến khi ta c̣n 80 tuổi.
Vậy ông ta có may mắn th́ sống dược
khoảng 14 năm nữa thôi. Thế mà
chỉ do một chuyện đă qua, ông
đă làm phí gần hế một năm
v́ những oán giận mỉa mai.
Thật đáng thương hại!
Đáng lẽ oán hận và thương
thân trách phận như vậy, ông nên
tự hỏi tại sao ông không
được các người làm công
cảm ơn. Có thể v́ ông trả lương
họ quá ít và bắt họ làm
nhiều quá. Có thể họ nghĩ
rằng tiền thường trong ngày
lễ giáng sinh không thiệt phải là
tièn thưởng mà chính là một
thứ tiền công. Có thể rằng ông
hay bắt bẻ quá không ai dám lại
gần, nên không ai dám nghĩ tới
sự cảm ơn chủ. Cũng có
thể họ cho rừng sở dĩ ông
thưởng họ v́ nếu không thưởng
th́ số lời cũng phải đem
đóng thuế gầ hết thôi.
Về phương diện khác, các người
làm công có thể là ích kỷ ti tiểu
và thiếu giáo dục. Có thể như
thế kia, có thể như thế
nọ. Về đièu ấy tôi cũng không
biết ǵ hơn bạn. Nhưng tôi
biết rằng bác sĩ Samuel Jonhson nói:
'Ḷng biết ơn là kết quả
của một giáo dục cao đẹp.
Hạng thô lỗ không có đức
ấy'.
Tôi muốn nói: Ông già ấy đă có
một lỗi lầm lớn chúng cho
cả nhân loại là quá tin ở ḷng
biết ơn của người khác. Ông
thực sự không biết rơ bản tính
con người.
Nếu bạn cứu được
một mạng người, bạn có
mong người đó tỏ ḷng mang
ơn bạn không? Chắc có. Ḱa, Samuel
Leibowitz, trước làm luật sư, sau
làm toà, đă cứu được 78 người
khỏi lên máy điện. Vậy
bạn thử đoán có bao nhiêu kẻ
thoát chết ấy đă cảm ơn ông
ta hoặc chịu khỏ gởi cho ông ta
một bức thiệp chúc năm
mới? Bao nhiêu? bạn đoán đi...
Đúng, đúng như vậy - Không có
một người nào hết.
Về vấn đề tiền bạc cũng
vậy, đừng hy vọng ǵ hơn.
Charles Schwab nói với tôi có lần ông
đă cứu một người giữ
tiền ở ngân hàng. Người này
thụt két lấy tiền đầu cơ.
Ông phải bỏ tiền riêng trả ngân
hàng đó để y khỏi ngồi tù.
Y có mang ơn ông không? Có, nhưng không lâu.
Rồi y trở lại phản ông,
tố cáo ông, nói xấu ông, người
đă cứu y khỏi khám.
Nếu như cho một người bà
con một triệu mỹ kim, bạn có
mong người ấy mang ơn bạn không?
Chính Andrew Carnegie đă làm việc
ấy. Nhưng nếu Andrew sống
lại sau khi chết ít lâu, ông sẽ
bất b́nh thấy người bà con
đó thoá mạ ông. Tại sao? Tại
'lăo Andrew sông lại sau khi chết ít lây,
ông sẽ bất b́nh thây người
đă cho những hội thiện 365
triệu mỹ kim mà chỉ thí cho bà con
được mỗi một triệu
bần tiện đó thôi' như lời
y nói vậy.
Như vậy đó. Bản tính con
ngời thời nào cũng là bản tính
con người và trong ời bạn,
bạn đừng mong ǵ nó thay đổi
hết. Vậy th́ sao không cứ nhận
nó đi? Tại sao không có óc thực
tế của ông già Marc Aurele, mọt
vị anh quân hiền triết nhất
của đế quốc La mă. Một hôm
ông ấy vào việt nhật kư như
vậy: 'Hôm nay tôi sắp gặp
những kẻ đa ngôn, những kẻ
ích kỷ, tự phụ và vô ơn
bạc nghĩa. Nhưng tôi sẽ không
ngạc nhiên hoặc bất b́nh v́ tôi không
tưởng tượng được
một thế giới vắng mặt
những hạng ấy'.
Lờ đó khôn, phải chăng
bạn? Bạn và tôi cứ cằn
nhằn về ḷng bạc bẽo của
loài người, nhưng lỗi về
ai? Lỗi của bản tính con người
hay lơi ở ta ngu muội, không hiểu
biết bản tính đó/ Thôi, đừng
mong ǵ người ta báo ơn ḿnh
hết. Như vậy, nếu may mà
gặp người nào biết ơn ḿnh
th́ phải vui thích biết bao không? C̣n
nếu chẳng may thfi cũng không đến
nỗi thất vọng.
Vậy là cái thứ nhất tôi muốn
diễn trong chương này: Loài người
vong ân là điều rất tự nhiên;
vậy chúng ta cứ mong có người
đáp ơn ta th́ chúng ta sẽ tự rước
lấy nhiều nỗi đau ḷng.
Tôi quen một người đàn bà
ở Nũu ước lúc nào cùng
phản nàn về cảnh cô độc.
Không một thân thích nào muốn lại
gần bà. Điều đó cũng không
lạ. V́ nếu bạn lại thăm th́
bà ta sẽ kể lể hàng giờ cho
bạn nghe đă nuôi nấng gây dựng
các cháu ḿnh ra sao, khi họ c̣n nhỏ. Nào
là hầu hạ chúng khi chúng bị
bệnh ban, bị quai bị, hoặc ho gà;
nào là nuôi nấng chúng hàng năm, nào là
giúp cho một đứa học trường
thương mại, nào là gă chồng cho
một đứa khác.
Mà các cháu có lại thăm bà không? Có,
lâu lâu một lần v́ bổn phận mà!
Nhưng họ sợ giáp mặt bà
lắm. Họ biết rằng tới
đấy th́ phải mất hàng giờ
những lời trách phiền bóng gió, nhưng
lời phàn nàn chua xót, và hàng chuỗi
những tiếng than thở dài v́ số
phận. Và khi thấy không thể trách móc
hay doạ dẫm, đay nghiến để
họ thường hại thăm ḿnh th́
bà 'lên cơn'đau tim.
Bà đau tim thiệt không? Thiệt. Bác sĩ
nói bà đau tim v́ thần kinh bị
chứng hồi hộp và vô phương
chữa cái bệnh do xúc động mà
ra đó.
Bà ta cần được các cháu yêu và
săn sóc, cho như vậy là 'ḷng
biết ơn' , và nghĩ cơ quyền
được nhận ḷng biết ơn
của họ. Nhưng bà lại đoi
rhoir ḷng biét ơn ấy nên không bao
giờ các chúa biết ơn và yêu
mến hết.
Có cả ngàn người đàn bà như
bà, có cả ngàn người đau
ốm v́ 'ḷng bạc bẽo' của
kẻ khác. v́ kẻ khcs không săn sóc
để họ sống cô độc.
Họ muốn được yêu mến,
song cách độc nhất để
được yêu mến lại là
chớ đ̣i hỏi t́nh yêu mà phải
nói vung nó ra, đừng mong báo đáp.
Bạn cho là lư tưởng quá, là
ảo mộng quá không thi hành được
sao? Không đâu. Điều này chí lư
lắm. Muốn t́m được
hạnh phúc th́ chúng ta phải theo cách
hiệu nghiệm đó. Tôi không biết
chắc vậy v́ tôi đă kinh nghiệm
trong gia đ́nh tôi. Song thân tôi lấy
sự giúp đơ kẻ khác làm vui. chúng
tôi nghèo, lúc nào cũng đeo nợ. Nhưng
mặc dầu cùng túng, song thân tôi luôn
luôn dành một số tiền để
mỗi năm gởi giúp một cô nhi
viện ở Iowa. Không bao giờ các người
lại thăm viện. và có lẽ không
một trẻ em mồ côi nào cảm
ơn hai ân nhân đó ả, trừ
một vài hàng trong thư. Nhưng các người
được đền đáp lại
rất nhiều v́ đă hưởng cái
vui giúp trẻ nhỏ mà không cầu mong
được đền đáp lại.
Khi lớn lên tôi không làm ăn ở xa,
mỗi năm gần tới lễ Giáng
Sinh tôi luôn luôn gởi về ba má tôi
một tấm ngân phiếu và năn
nỉ hai người ăn tiêu cho sung sướng
một chút. Nhưng ít khi hai người
chịu nghe tôi. Lần nào về thăm
nhà vài ngày trước lễ Giáng Sinh th́
tôi cũng được ba tôi kể cho
nghe đă mua than và thức ăn một
người 'Đàn bà goá', đông con mà
nghèo khổ nào ở trong tỉnh. Các người
bố thí như vậy để
được cái ǵ? Được cái
vui đă cho mà không báo đáp một
mảy may ǵ hết.
vậy đây là cái ư thứ nh́ cỉa
tôi trong chương này: Nếu chúng ta
muốn t́m hạnh phúc, th́ đừng
nghĩ tới sự người khác
ơn hay quên ơn ta, mà cứ giúp đỡ
để được cái vui trong thâm
tâm là đă giúp đỡ.
Có lẽ từ 10.000 năm rồi, các
bực cha mẹ đều bứt đầu
bứt tóc v́ nỗi con cái ăn ở
bạc bẽo.
Cả vua Lear trong kịch của Shakespeare
cũng la hét: 'Có đứa con bạc
bẽo thật đau đớn hơn
bị gắn độc cắn!'.
Nhưng con cái ta làm sao biết mang ơn
được, nếu ta không tập cho
chúng như vậy? Ḷng bạc bẽo
mọc tự nhiên như cỏ dại. Ḷng
biết ơn th́ như bông hồng,
phải trồng trọt, tưới bón,
nâng niu, nắng che gió chống.
Nếu con ta bạc bẽo th́ lỗi
về ai? Có lẽ về ta. ta không bao
giờ dạy chúng tỏ ḷng biết
ơn với người khác th́ sao ta
lại mong chúng biết ơn ta?
Tôi quen một người ở Chicago có
nhiều lẽ để phàn nàn về
sự vô ơn của con riêng vợ. Anh
ta làm trong một xưởng đóng thùng,
công việc vất vả và ít khi
kiếm được trên 40 mỹ kim
mỗi tuần. Khi cưới một người
đàn bà goá, anh ta nể vợ, đi
vay mượn để cho mấy đứa
con riêng của chị này vào trường
Trung Học. Có 40 mỹ kim mỗi
tuần mà phải lo ăn mặc,
củi lửa lại lo trả vốn
lời nữa. Bốn năm ṛng như
vậy, cực như trâu, song anh ta không
hề than thở.
Mà mấy đứa con ấy có cảm
ơn anh ta không? Không. Người vợ
cho như vậy là tự nhiên mà mấy
đứa con riêng cũng vậy. Không
bao giờ chúng tưởng tượng
được rằng chúng mang nợ
bố ghẻ chúng. Và cũng không bao
giờ chúng mở miệng cảm ơn
nữa.
Ai đáng trách trong đó? Mấy đứa
con ư? Đă đành; nhưng người
mẹ chúng c̣n đáng trách hơn.
Chị ta nghĩ bắt bọn đầu
xanh ấy nhận thấy mang ơn người
khác là tủi nhục cho chúng. Chị ta
không muốn chúng 'vào đời với
một món nợ ở trên đầu'.
Cho nên không bao giờ chị ta nói: 'Dượng
các con cho các con đi học, thiệt là
ḷng rộng như biển cả'. Trái
lại chị lại có vẻ như nói:
'ồ! ít nhất th́ thẳng cha già
đó cũng phải làm vậy chớ'.
Chị tưởng như thế là thương
con, nhưng sự thiệt chị làm hư
chúng, đẩy chúng vào đời
với cái ư nghĩ nguy hiểm rằng
người đời phải nuôi chúng.
Mà ư nghĩ nguy hiểm rằng người
đời phải nuôi chúng. Mà ư nghĩ
đó quả đă nguy hiểm, v́
một trong những đứa ấy
đă thử 'mượn' tiền
chủ để rồi bắt khám
đường phải nuôi.
Chúng ta nên nhớ rẳng chúng ta dạy
con ra sao th́ cin ta thành người như
vậy. chẳng hạn đời bà gi d́
tôi là Viola Alexder đă chứng minh
lời đó một cách kiêu ngạo. Không
bao giờ bà phàn nàn về sự bạc
bẽo của con cái. Khi tôi c̣n nhỏ, d́
Viola đưa bà ngoại tôi về nhà săn
sóc, chiều chuộng cùng với bà
mẹ chồng tôi. Tôi có thể nhắm
mắt lại mà vẫn thấy hai bà
ngồi làm phiền không? Tôi tưởng
nhiều khi cũng có. Nhưng không bao
giờ d́ tỏ vẻ khó chịu ra nét
mặt. D́ yêu cả mẹ đẻ
lẫn mẹ chồng, nâng niu, phụng dưỡng
làm cho hai bà ở nhà con mà tưởng
như ở nhà ḿnh. D́ phải nuôi
tới sáu ngừơi con, lại
phụng dưỡng thêm hai bà, mà cứ
coi như việc thường, Theo d́,
chẳng có chi là cao thượng đặc
biệt hoặc đang khen hết,
chỉa là việc phải, tự nhiên, nên
d́ mà như vậy thôi.
D́ Viola bây giờ ra sao? D́ đă goá
chồng trền 20 năm và có năm người
con đă trưởng thành ra ở riêng.
Cả năm người tranh nhau rước
d́ về để đển ơn cúc
dục! Họ cùng kính mến mẹ, cùng
phàn nàn rừng mẹ không bao giờ
ở lâu với họ.
Đó là ḷng 'biết ơn' ư? Vô lư!
Đó là t́nh yêu, t́nh yêu trong sạch.
Những người đó trong tuổi
thơ đă được thở
một không khí ấm áp và chói lọi t́nh
ây yếm, nên bây giờ đáp lại ḷng
thương ấy. C̣n ǵ là lạ?
Vậy chúng ta hăy nhớ rằng muốn
cho con cái đừng quên ơn, ta
phải biết nhớ ơn. ta hăy
nhớ rằng 'chúng tuy nhỏ mà tai không
nhỏ' và rất để ư tới
những lời nói của bậc mẹ
cha đó. Chẳng hạn như lần
sau ta có muôn chê ḷng tốt của ai trước
mặt chúng ta, th́ ta hăy ngừng ngay
lại. Đừng bai giờ nói: 'Ngó cái
khăn kỳ cục mà chị Sue gởi
mừng năm mới chúng ta? Chị
ấy đan lấy để khỏi
mất một xu nào hết đây mà'.
Lời chê đó, đối với chúng
ta có thể là rất b́nh thường,
như trẻ con nhớ rất kỹ.
Vậy nên nói như vầy: 'Thử nghĩ
xem, chị Sue đă mất bao công để
đan cái khăn này mằng chúng ta!
Thiệt tốt bụng quá! Phải
viết thơ cảm ơn chị ngay
mới được'. Như vậy con
cái chúng ta sẽ tập nhiễm lần
lần, mà không hay, cái tánh tốt
biết khen và tỏ ḷng mang ơn
|
16- Bạn có
chịu đổi cái bạn có để
lấy một triệu mỹ kim?
Lời bạn đă làm
tôi phải suy nghĩ. Tôi chẳng hề
tưởng tượng được
sự ấy, nhưng nay, tôi đă
nhận thấy thật tôi chẳng có ǵ
đáng than phiền. Tôi quyết định
sửa ḿnh thành một người
trầm tĩnh, can đảm như xưa
và tôi thấy chẳng có ǵ là khó'.
Tôi có thể kể ra một trường
hợp khác nữa, của một người
bạn gái, cô Lucile Blake. Đời cô suưt
nữa trở nên bất hạnh, nếu
cố không được người
bảo cách hưởng những cái cô có
và đẹp thói ao ước những
sự không có.
Tôi biết Lucile từ ngày chúng tôi cùng
học nghề viết báo tại Đại
học đường Columbia. Mười
năm trước cô đă bị kích
động rất mạnh. Hồi đó,
cô ở tỉnh Tucson, thuộc tiểu
bang Arizona.Tôi xin tiết lộ câu
chyện về cô như cô đă
thuật với tôi.
'Bấy giờ tôi sống một đời
hết sức hoạt động: tôi
học phong cầm tại Đại
học đường, tôi đảm
nhận lớp dạy buổi tối
trong trường kia. Ngoài ra tôi thường
được mời đến dự
những bữa tiệc kéo dài đến
khuya, hoặc khiêu vũ dạo dưới
ánh trăng. Một bữa kia, tôi sắm
sửa đi chơi, bỗng tôi chết
ngất. Thầy thuốc bảo tôi đau
tim và phải tỉnh dưỡng trong
một năm, nếu tôi muốn khỏi
bệnh.Tôi hỏi ông liệu ông có b́nh
phục và khỏe mạnh như trước
không, ông nhún vai trả lời một cách
mập mờ:
'Một năm nằm trêm giường
như một kẻ tàn tật và rất
có thể chết vẫn hoàn chết!'.
Càng nghĩ lại càng hoảng sợ.
Tại sao tôi lại gặp phải tai
ương này? Tôi có làm điều ǵ
ác đâu? Tôi nghẹn ngào khóc suốt
một ngày. Tôi oán định mệnh nhưng
vẫn nằm nghĩ như lời
thầy thuốc dặn. Kế đó ít
lâu, một người bạn thân đến
thăm tôi. Đó là một hoạ sĩ
trẻ tuổi. Anh ta khuyên tôi rằng: 'Tôi
biết đối với chị trong ngày
này th́ việc phải nằm tĩnh dưỡng
một năm ṛng là một sự rùng
rợn. Nhưng rồi chị xem, cũng
chẳng ghê ghớm như chị tưởng
đâu. Chị sẽ có nhiều th́
giờ để suy nghĩ, đền
nhận xét ḿnh và biết rơ ḿnh. Tri
thức chị sẽ phát triển và
chị sẽ trở thành thực sự
với chị sau mười tháng đó
hơn là sau hai mươi lăm năm
chị đă sống'. Thế rồi tôi
nguôi dần và tôi cố gắng bắt
tôi phải suy nghĩ về những
vấn đề mà trước kia tôi không
để ư hay có khi c̣n khinh thường.
Một tối, tôi vặn vô tuyến
điện và nghe thấy một câu
kỳ cục. 'Ngừơi ta chỉ
bày tỏ được một cách hoàn
toàn những điều cảm thấu
thâm tâm'.
Toi cũng đă đọc hay nghe
những câu tương tự như
vậy, nhưng v́ bây giờ nằm
liệt trên giường nến những
câu đó, đáng lẽ chỉ
thoảng qua, lại thấm thía và ăn
sâu và óc tôi. Đầu óc tôi từ lúc
ấy bắt đầu làm việc và tôi
nhất quyết sẽ chống lại
sự sợ hăi và những ư tưởng
ảm đạm, sẽ bỏ không nghĩ
đến những đièu có thể làm
chậm, làm hại sự b́nh phục
của tôi, và sẽ chỉ nghĩ đến
hạnh phúc, vui sống và sức
khoẻ. Mỗi sáng khi tỉnh dậy, tôi
tự bắt tôi kiểm điểm
lại mọi lư do để tôi phải
sung sướng: Trong người không
đau đớn; được nghe
những điệu nhạc êm đẹp
phát ra từ máy truyền thanh; có
những bạn tốt... Không dầy
mấy tuần sau tôi thấy vui vẻ và
treo ở cửa buồng tôi một
tấm bảng, cấm không cho hai người
vào thăm một lượt.
Tôi khỏi bệnh đă được
chín năm và tôi lại sống cuộc
đời hoạt động và hữu
ích. Ngay đến năm, v́ đó
thực sự là một năm hạnh phúc
và hết sức hữu lợi. Lẽ
cố nhiên, tới nay, sáng nào tôi cũng
vẫn kiểm điểm lại
những cái mà toi có và tôi sẽ
chẳng bao giờ bỏ thói quen đó.
Toi xin thú cùng anh là tôi rất hổ
thẹn, v́ đến khi sợ chết
mới học được cách
sống'.
Nói tóm lại, cô Lucile Blake đă t́nh
cờ nhận định một định
lư mà ông Samuel Jonhson đă nêu ra cách
đây hai thế kỷ. Ông Samuel Johnson nói
rằng: 'Cái thói quen chỉ trông
thấy bề tốt của mọi
việc c̣n quư giá hơn một ngàn anh
kim lợi tức một năm'.
Bạn nên chú ư rằng câu này thốt
ra không phải bởi miệng một
ngừơi lạc quan mà lại bởi
miệng một người trong hai mươi
năm đă biết thế nào là lo
lắng cho ngày mai v́ nghèo khổ, đói
khát, để rồi trở nên một
nhà văn hoà xuất sắc nước
Anh thời đó.
Bạn muốn biết làm sao để
biến hoá cái tội ngày ngày rửa
bắt thường một việc lư thú
không? Chắc là có. Vậy tôi xin
giới thiệu một cuốn sách
tuyệt diệu, nhan đề 'Tôi
muốn mắt sáng lại' mà tác
già là bà Morghild Dahl, một thiếu
phụ bị loà trong năm mươi năm.
Trong chương đầu có câu
rằng: 'Hồi đó tôi chỉ trông
được một mắt và có
những vẩy nhỏ che gần kín con
ngươi làm tôi chỉ c̣n nh́n
thấy lờ mờ qua cái khe nhỏ
ở phía trái. Chẳng hạn, muốn
coi một quyển sách, tôi phải
cầm đưa lên tận mắt bên trái
và đưa hết con ngươi sang phía
tả'.
Nhưng bà không chịu để ai thương
hại ḿnh, bà nhất định không
để cho cố tật này làm bà
trở thành một phế nhân. Hồi c̣n
là một cố gái nhỏ, bà muốn chơi
với trẻ con hàng xóm, nhưng không trông
thấy những nét phấn vẽ. V́
vậy, khi bọn trẻ trở về nhà,
bà liều quỳ xuống vệ hè, dí
mắt xuống đất để ḍ
những nét phấn. Chẳng bao lấu
biết tường tận từng nơi
từng chỗ, trong khu phố thường
chơi đùa với các bạn, biết
tường tận đến nỗi chơi
tṛ g̣ có chạy đua là đều
thắng. Muốn đọc, bà dùng
những sách in chữ thật lớn, dí
sát đến mắt. Cứ thế
học và thi đậu hai bằng:
một bằng kiến trúc tổng quát,
tại Đại học đường
Minnesota, một bằng giáo sư mỹ
thuật Đại học đường
Columbia.
Ra đời với chức giáo viên
tại một làng nhỏ ở thung lũng
Twin, thuộc Tiểu bang Minnesota, bà
tiếp tục theo sự nghiệp báo chí
tại đại học đường
Augustana trong tỉnh Sioux Fallo thuộc
tiểu bang Dakota Sud. ở đó trong 13 năm,
ngoài các công việc nhà trường, bà
c̣n diễn thuyết về văn chương
tại những câu lạc bộ phụ
nữ địa phương và một
đôi khi trước máy truyền thanh.
Bà Morghid Bahl thuật tiếp trong cuốn
sách: 'Trong tiềm thức, tôi lúc nào cũng
sợ hăi sẽ mù hẳn. Để
trấn áp ư tưởng đen tối
ấy, tôi đă tự bắt lúc nào cũng
vui vẻ, có khi quá vui bất cứ trong
trường hợp nào'.
Thế rồi, đến năm 1943, khi bà
đă năm mươi hai tuổi,
một phép lạ xẩy ra: nhờ
một cuộc giải phẫu tại
bệnh viện nổi danh Mayo, bà đă
trông thấy rơ gấp bốn lần.
Một vũ trụ mới, đẹp và
thú vị biết bao nhiêu hiện ra trước
mắt bà. Bà rào rạt cảm thấy cái
thú làm những việc mà trước
kia bà không làm được, ngay cả
đến việc rửa bát nữa. bà
kể lại rằng: 'Mới đầu
tôi vầy bọt trắng li ti và nhẹ
nhơm lềnh bềnh trong chậu nước.
Tôi bốc lấy một năm bọt xà
bông soi trước ánh sáng rực rỡ
của một cầu vồng nho nhỏ'.
Đứng trong bếp nh́n qua cửa
sổ , bà hoan hỉ ngắm 'đàn chim
đú đởn hay qua, dưới
những đợt tuyết trắng'.
Đă bao giờ bạn có ư nghĩ
cảm ơn Tạo hoá đă cho bạn
rửa bát, ngắm một nắm bọt
xà bông và say sưa nh́n một đoàn
chim bay dưới tuyết không? Chắc
là không phải bạn chăng? Nếu
vậy bạn đáng tự lấy làm
hổ thẹn. Bởi v́ bạn sinh vào
một thế giới thần tiên, có
những vẻ đẹp thiên h́nh,
vạn trạng, vậy mà bạn cũng
như bao người khác, đă mù quáng
không trông thấy, đă bỏ phí
tận hưởng
|
17- Ta là ai?
Tôi c̣n giữ một
bức thư của bà Edith Alberd
ở Mount Airy, thư viết: 'Hồi
nhỏ, tôi rất dễ cảm xúc và nhút
nhát. V́ tôi lớn con và cặp má phính lên
tôi có vẻ mập. Má tôi hơi cổ,
cho rừng dùng tân thời trang là điên.
Luôn luôn má tôi bảo phải 'ăn
chắc mặc dầy'. Và bắt tôi
mặc quần áo dài, rộng... cho lâu rách.
Không bao giờ tôi được dự
những đám hội hè, vui vẻ
trẻ trung. Tại trường, tôi không
giỡn với các bạn, cả trong
giờ thể thao nữa. Tính cả
thẹn của tôi thành bệnh. Tôi
thấy tôi 'khác' hẳn các bạn bè và
hoàn toàn khả ố.
'Lớn lên, tôi kết hôn với một
người chồng cao niên. Nhưng tính
tôi cũng không thay đổi. Bên
chồng tôi là một gia đ́nh biết
lẽ phải và tự tín. Tôi rán
bắt chước mà không được.
Nhà chồng tôi cố tập cho tôi
lịch thiệp bao nhiêu, chỉ làm cho tôi
e lệ bấy nhiêu. Tôi hoá ra nóng
nảy, cáu kỉnh. Tôi trốn hết
thảy bạn bè. Tôi rất sợ có khách
đến chơi. Thực tai hại! Tôi
biết vậy và sợ nhà tôi cũng
biết vậy, nên khi lỡ ở đám
đông tôi ráng vui vẻ. Nhưng tôi
lại quá lố, hoá mất cả
tự nhiên. Tôi hiểu thế và tôi
khốn khổ lắm. Chót hết tôi
đau đớn đến nỗi không
muốn kéo dài đời thêm nữa. Tôi
bắt đầu nghĩ tới tự
tử.
Nhưng rồi chỉ một lời nói
vô t́nh đă thay đổi cả đời
tôi. Bà mẹ chồng tôi một hôm
kể cho tôi nghe cách bà dạy dỗ con
cái. 'Dù sao cũng mặc, mẹ khỉ
muốn cho chúng sống theo chúng thôi.
Cứ tự nhiên, không bắt chước
ai hết'. tức th́ tôi nhận thấy
rằng chuốc lấy khổ vào thân
chỉ v́ tự ép ḿnh vào một cái khuôn
không thích hợp.
Sáng hôm sau, thay đổi hẳn. Tôi
bắt đầu sống theo tôi. Tôi ráng
nhận xét kỹ về cá tính của tôi,
ráng nhận định xem tôi ra sao. Tôi
nhận định những nét đặc
biệt của tôi. Tôi hết sức xem
xét các màu, các kiểu áo, để
ăn bận sao cho hợp ư với ḿnh.
Rồi tôi giao du, với bạn bè, xin
nhập một hội nhỏ. Tôi rất
sợ hăi khi bị bạn bắt lên
diễn đàn. Nhưng mỗi lần nói
trước đám đông, tôi can đảm
được thêm một chút. Phải lâu
lắm ... nhưng bây giờ tôi thấy
sung sướng ngoài ước vọng
của tôi. Tôi dạy dỗ con tôi, luôn
luôn chỉ vẽ cho chúng kinh nghiệm mà
tôi đă đắng cay học được:
'Dù sao cũng mặc, các con cứ
sống theo ư các con'.
Bác sĩ James Gordon Gilkey đă nói: 'Phải
có nghị lực để sống theo ḿnh
là một vấn đề' cũ
như lịch sử và phổ biển như
đời người'. Không đủ
lực để sống theo ḿnh 'nguyên
nhân sâu kín của các chứng bệnh
thần kinh'. Angelo Patri đă viết 13
cuốn sách và hàng ngàn bài báo về giáo
dục nhi đồng. Ông nói: 'Không ai
khổ sở bằng kẻ muốn đổi
cá tính của ḿnh để biết thành
một người khác'.
Cái thói muốn đổi thành người
khác tai hại nhất ở Hollywood. Ông Sam
Wood, một trong những nhà sản
xuất phim hát bóng nổi danh tại
Hollywood nói rằng ông đă nhức
đầu nhất bởi các tài tử
trẻ tuổi. Ông phải vô cùng
cực nhọc để thuyết cho
họ chịu đóng vai hợp với tài
riêng của họ trong khi họ chỉ
muốn trở thành những Lana Turner
hạng nh́ hay Clark Gable hạng ba. Ông không
ngớt khuyên họ: 'khán giả chán
những lối đó rồi, họ
muốn lỗi khác kia'.
Trước khi ông cho ra những phim danh
tiếng như 'Good Bye, Mr Chips' và 'For whom
the bell tolls' (Ernest Hemingway). ông làm lâu năm
tại một hăng địa ốc để
luyện tài buôn bán. Ông tuyên bố:
'Bắt chước người khi không
bao giờ đi xa được. Không nên
làm con vẹt. Kinh nghiệm đă dạy
tôi rằng nên bỏ rơi ngay những
kẻ nào chỉ muốn bắt chước
người'.
Vừa đây, tôi hỏi Paul Boynton, giám
đốc pḥng nhân viên của hăng đầu
Socony: 'Những người tới xin
việc có lỗi lầm nào nhất?
Chắc chắn ông biết rơ điều
ấy, v́ ông đă tiếp hơn 60.000
người tới xin việc và đă
viết cuốn sách nhan đề là: 'Sáu
cách dể xin việc làm'. Ông trả
lời tôi: Lỗi lầm lớn
nhất của họ là thiếu tự
tin. Đáng lẽ tự nhiên và hoàn toàn
thành thật th́ họ lại thường
dọ dẫm ư tôi mà đáp câu tôi
hỏi chứ không trả lời theo ư
thọ. Như vậy hỏng lắm, v́
có ai muốn dùng một người
chỉ lặp lại lời những người
khác như cái máy hát đâu. Không ai
muốn xài giả hết'.
Có một người con gái của chú tài
xế đă phải trả giá rất
đắt để được bài
học ấy. Chị ta muôn nên một
danh ca. Nhưng cái mặt của chị
thực là một tai nạn cho người
vác nó. Miệng chị rộng, răng
chị vẩu. Lần đầu ca trước
công chúng trong một hộp đêm
tại New Jersey chị trề môi trên
xuống để che răng. Chị làm
điệu bộ thiệt 'mầu mè'. Và
kết quả là chị làm tṛ cười
cho thiên hạ và chịu thất bại
mỉa mai.
Nhưng có một khán giả tại
đó nhận thấy chị có tài. Ông
ta nói trắng ngay: 'Này cô, tôi đă
thấy cô diễn và biết cô mắc
cỡ v́ bộ răng của cô'.
Chị kia lúng túng hổ thẹn, th́ ông
ta liền tiếp: 'Có hại ǵ đâu?
Răng vẩu nào phải là một
tội? Đừng che nó! Cứ mở
miệng ra khán giả sẽ thích, khi
họ thấy cô không mắc cỡ
nữa'. Rồi ông ta lại ranh mănh nói
luôn: 'Vả chăng, bộ răng mà cô
cố t́nh che đậy đó, biết
đâu nó chẳng làm cho cô nổi danh?'
Chị Cass Deley nghe theo và không thèm
nghĩ tới cái 'mái hiên' của ḿnh
nữa. Từ hôm đó chị chỉ
nghĩ đến thính giả. Chỉ
mở miệng, thích chí, vui vẻ ca và
rồi trở nên một ngôi sao chói
lọi nhất trên màn ảnh và ở
đài phát thanh. Hiện nay nhiều người
đóng tṛ khác lại rán bắt chước
chị.
Khi triết gia trứ danh William James
nói ngừơi ta chỉ làm phát
triển 10 phần trăm những tài năng
tinh thần của ḿnh, là ông muốn
chỉ những người không tự
biết rơ giá trị của ḿnh. Ông
viết: 'Con người chúng ta bây
giờ so với con người mà chúng
ta có thể thành được, khác nhau
xa, cũng như người mơ
ngủ so với người thức
tỉnh vậy. Chúng ta chỉ dùng
một phần nhỏ khả năng
về thể chất và tinh thần
của ta thôi. Nói rộng ra, th́ con người
hoạt động trong một khu vực
hẹp ḥi quá, so với khả năng thênh
thang của họ. Chúng ta có nhiều
khả năng mà không bao giờ ta dùng
tới'.
Bạn và tôi, ta có những tài cán riêng,
vậy đừng mất công buồn
bực v́ nỗi không được như
người kia người nọ. Trên
địa cầu này, mỗi người
chúng ta là một nhân vật mới
mẻ, v́ từ hồi thiên lập địa
tới giờ, chẳng hề có người
thứ hai nào giống ta như đúc, mà
từ nay tói khi tận thế cũng không
sao có được một người
thứ hai y như ta nữa.
Một khoa học mới là khoa di
truyền học dạy rằng con
ngừơi do 23 nhiễm thể
(Chromosmes) của cha, 23 nhiễm thể
của mẹ cấu tạo nên. Ba mươi
sáu nhiễm sắc thể ấy định
đoạt phần di truyền của ta.
Amar Scheinfield nói trong mỗi nhiễm
sắc thể chứa từ vài chục
đến vài trăm 'nhân' mà mỗi 'nhân'
có thể thay đổi cả đời
sống của một người.
Sự tạo nên ta thực 'bí hiểm và
kinh dị' thay!
Cha mẹ sinh ra ta gần 400.000 triệu
tinh trùng, nhưng chỉ có một tinh trùng
thành ta thôi. Nói một cách khac, nếu ta
có lơi 400.000 triệu anh em th́ cũng không
một người nào y như ta hết.
Nói vậy có phải là nói ṃ không? Không.
Đó là một sự thật khoa
học. Nếu bạn muốn hiểu rơ
điều ấy xin bạn lại
tiệm sách mua cuốn: 'Bạn và sự
di truyền' của Amar Scheinfield.
Tôi sở dĩ hăng hái, quả
quyết, khuyên bạn nên sống theo như
bạn vậy, là v́ tôi tin tưởng sâu
xa và biết rơ điều tôi nói. Tôi
biết là những kinh nghiệm chua chát
và đau đớn. Tôi xin kể:
Lần đầu tiên từ giă miền
đồng ruộng Misssouri tới
Nữu Ước, tôi làm trong Hàn Lâm
kịch trường. Tôi mong thành một
nghệ sĩ. Tôi cho rằng có trong đầu
một ư mới và tài t́nh lắm, nó
tất đưa tôi tới thành công mau
chóng. Tôi tự nghĩ: 'Một cái ư
giản dị và chắc chắn như
vậy, tại sao cả ngàn người
háo danh chưa nghĩ tới. Thiệt
lạ lùng! ư đó như vầy: Tôi
sẽ nghiên cứu xem các kép hát nổi
danh thời ấy, như John Drew, Walter
Hampden và Otis Skinner có những 'ngón' ǵ.
Rồi tôi bắt chước những ngón
hay nhất của họ và sẽ
luyện cho tài tôi thành một kết
hợp rực rỡ của hết
thảy những tài ba đó. Thiệt là
điên! Thiệt là vô lư! Tôi đă phí
bao năm học bắt chước
kẻ khác mới nảy trong cái sọ
đặc như mít của tôi ư này:
Phải theo tài năng riêng của ḿnh,
không thể nào bắt chước
ngừơi khác được.
Thí nghiệm tai hại đó đă cho tôi
một bài học tới già đời
chứ?. Không. Tôi vẫn không chừa, tôi
xuẩn quá. Tôi phải học ôn lại
một lần nữa. Nhiều năm sau,
tôi bắt đầu viết một
cuốn sách mà tôi hy vọng sẽ là
cuốn hay nhất từ trước
tới nay về sự diễn thuyết
trước công chúng. Viết cuốn này
tôi cũng điên như lần trước:
tôi cũng vay ư tứ của hàng lố
tác giả khác rồi thu thập vào trong
một cuốn - một cuốn chứa
đủ những cuốn khác. Muốn
vậy, tôi đi lượm hàng chục
cuốn dạy cách nói trước công
chúng và bỏ mất một năm để
chuyển những ư của họ sang
bản thảo của tôi. Nhưng sau tôi
nhận thấy rằng tôi khùng. Cái
thứ cách 'tả-pí-lù' đó, tổng
hợp quá, khô khan quá, đọc ngán quá.
Thành ra công toi một năm trọn, tôi
phải xé bỏ sọt rác và viết
lại. Lần này tôi tự nhủ: 'Mày
phải là thằng cha Dale Carnegie với
tất cả những lỗi lầm và kém
cỏi của nó. Mày không thể là người
nào khác được'. Bỏ cái ư
viết một cuốn tổ hợp
những sách của người khác, tôi
xắn tay áo làm một việc mà đáng
lẽ tôi phải làm ngay từ đầu:
dùng kinh nghiệm riêng mà viết; dùng
những nhận xét riêng, nhưng tin tưởng
chắc chắn của tôi khi diễn
thuyết và khi nhận dạy ngừơi
ta diễn thuyết. Tôi đă học và
mong rằng tới chết cũng không quên
- bào học của ông Walter Raleigh (Tôi
không muốn chỉ ông Walter đă
trải ḿnh trên bùn để Hoàng
Hậu bước lên cho khỏi lấm
giầy đâu. Tôi muốn nói về ông
Walter Raleigh, giáo sư môn Anh quốc văn
học sử năm 1904). Ông ta nói 'Tôi không
có tài để viết một cuốn sách
khả sĩ so sánh với tác phẩm
của Shakespeare, nhưng tôi có
thể viết một cuốn theo tài năng
riêng của tôi được'.
Vậy th́ ta phải hành động theo
tài năng của ta, nhưng Irving Berlin
đă khôn khéo khuyên George Gershwin.
Berlin và Gershwin gặp nhau lần đầu,
Berlin đă nổi danh mà Gershwin c̣n là
một thanh niên mới tập đặt
nhạc, làm việc vất vả để
lănh của nhà xuất bản Tin Pan Alley
một số lương 35 mỹ kim
một tuần. Berlin khi đó thầm yêu
tài năng của Gershwin, cậy Gershwin làm
nhạc kư cho ḿnh với số lương
gấp ba lương cũ. Nhưng Berlin
lại chân thật khuyên rằng: 'Đừng
làm việc đó' Nếu nhận anh có
thể thành một Berlin thứ hai đấy,
song nếu anh nhất định theo tài
năng riêng của anh th́ danh tiếng anh
sẽ vang lừng nhất trong nước'.
Gershwin nghe lời. Ông luyện
tập và dần dần trở nên
một nhà đặt nhạc khúc đặc
biệt nhất của Mỹ thời
ấy.
Charlie Chaplin, Will Rogers, Mary Mc. Bride, Gene Autry
và cả triệu người khác đều
phải học bài học tôi
đương giảng trong chương
này, phải học bằng kinh nghiệm
và cũng đă phải trả giá
rất đắt như tôi.
Khi Charlie Chaplin mới đóng phim, viên
giám đốc hăng phim muốn chàng
bắt chước một vai hề người
Đức nổi danh. Và Chaplin không thành
công cho tới khi ông đóng vai hề
theo ư ông. Boh Hope cũng đă qua con
đường ấy: Bảy năm
vừa ca hát,. mà ông thất bại măi
cho tới khi bắt đầu biết khôn
theo tài hăng của ḿnh. Will Rogers
dàn cảnh trong một ca vũ đài
đă lâu năm không pha tṛ lấy
một tiếng, cho tới khi ông thấy
ông chỉ có tài pha tṛ và rồi ông
nổi danh v́ vậy.
Khi Mary Margeret Mc Bride bước vào
đời nghệ sĩ, cô làm đào
hề và thất bại. Nhưng khi
chịu theo tài năng của cô - của
một cố gái nhà quê, không đẹp
ǵ, ở miền Missouri - th́ cô thành
một ngôi sao nổi danh nhất trên
đài phát thanh ở Nữu Ước.
Khi Gene Autry cố bỏ giọng Texas,
trang sức như các cậu con trai ở
thành thị và khoe rằng ḿnh sinh trưởng
ở Nữu Ước th́ chỉ làm cho
thiên hạ chế nhạo chàng thôi. Nhưng
khi chàng đờn cây banjo và ca những
bài hát của bọn 'cao bồi' ở
Texas th́ chàng vào con đường
mới đưa chàng tới sự
nổi danh khắp toàn cầu, trên màn
ảnh cũng như trên đài phát
thanh.
Trên thế giới không có ai giống ta
hết. Ta nên lấy thế làm mừng.
Trời cho ta tài năng nào th́ tận
dụng tài năng đó. Xét cho kỹ,
nghệ thuật nào chỉ để
tự mô tả hết. Ta chỉ có
thể ca những vui, buồn của ta thôi.
Ta chỉ có thể vẽ những
cảnh vật mà ta thích thôi. Kinh
nghiệm, hoàn cảnh, di truyền đă
tạo ra sao th́ ta phải vậy. Dù
tốt hay xấu, ta cũng phải
trồng trọt trong khu vườn
nhỏ của ta. Dù dở ta phải
gảy cây đờn nhỏ của ta
trong dàn nhạc của đời.
Emerson viết trong thiên tuỳ bút:
'Tự tín' rằng: 'Trong sự giáo
dục của một người, có
một thời gian người đó
nhận thấy rằng ganh tị là ngu,
bắt chước là tự tử,
rằng phậm ḿnh sao th́ phải
chịu vậy, rằng trong vũ
trụ, mênh mông đầy thức ăn
này, ngừi đó phải vất vả
cày miếng đất trời đă cho
ḿnh th́ ḿnh mới có được
hột lúa ăn. Năng lực ở
trong người ta là một năng
lực mởi mẻ và riêng biệt, không
ai có hết, và ngoài ta ra, không ai biết
ta có thể làm được cái ǵ, mà
chính ta, ta cũng không biết nữa,
nếu ta không chịu làm thử'.
Emerson nói vậy. C̣n Douglas Malioch,
một thi nhân th́ nói như vầy:
Chẳng làm thông vút trên đồi
Th́ làm cây nhỏ bên ng̣i, dưới
thung
Thông kia đẹp nhất trong vùng
Tôi tuy bé nhỏ sánh cùng thông xanh
Làm cây chẳng được, cũng
đành,
Tôi làn ngọn cỏ xanh xanh bên đàng.
Thân không hoá kiếp cá vàng,
Th́ làm tôm tép tung tăng trong đầm.
Có tướng mà cũng có quân
Ai lo việc nâư, dưới trần cùng
vinh
Có việc trọng, có việc kinh
Miễn tṛn bổn phận, trọng khinh
sá ǵ?
Rộng, hẹp cũng thể đường
đi
Mặt trời, sao nhỏ, khác chi,
bạn hiền?
Việc ǵ tận mỹ là nên.
Thành công chẳng kể sang hèn, thấp
cao
|
18- Định
mệnh chỉ cho ta một trái chanh, hăy
làm...
Hăy làm thành một ly nước chanh
ngon ngọt
Cách đây ít lâu, tôi có dịp gặp
ông Robert Mayard Hutchinson, Hiệu trưởng
Đại Học đường Chicago.
Lẽ cố nhiên, trong lúc nói chuyện,
tôi hỏi ông làm cách nào cho khỏi
buồn bực. Ông nói bao giờ ông cũng
theo lời khuyên bảo của ông
bạn Julius Rosenwald, Chủ tịch
một xí nghiệp lớn: Định
mệnh chỉ cho ta một trái chanh thôi?
Được- Ta hăy pha một ly nước
chanh.
Phải là một người thông minh,
một nhà mô phạm như ông mới có
thể xử sự như vậy.
Những kẻ ngu ngốc tất phải
làm khác hẳn, v́ nếu không được
định mệnh ban cho một thỏi
vàng mà chỉ ban cho một trái chanh,
họ sẽ ngồi phịch xuống mà
ta thán. Nào: 'C̣n ḥng ǵ, c̣n trầy da tróc
vẩy làm ǵ nữa' nào: 'thế là
hết hy vọng'. Rồi oán trời, trách
bạn, ṿ tai kêu đời bất công,
thương thân tủi phận. Trái
lại, người khôn ngoan, khi thấy
ḿnh chỉ được vỏn vẹn
một trái chanh nhỏ, sẽ tự
nhủ: 'Lần thất bại này
dạy ta nhiều nhiều hay lắm
đấy. Phải làm thế nào cho t́nh
cảm khá hơn bây giờ? Làm cách nào
để đổi trái chanh này thành ly
nước chanh ngon ngọt chứ?'.
Nhà triết lư học Alfred Adler,
trọn đời chuyện chú vào công
cuộc nghiên cứu những kho tiềm
lực nhân loại đă phải nói
rằng: 'Một trong những đức
tính kỳ diệu của con người
là ư chí chuyển bại thành thắng'.
Tôi xin kể chuyện một người
đàn bà đă hiểu và áp dụng phương
pháp lấy trái chanh của ḿnh pha thành
một ly nước chanh tuyệt
ngọt. Đó là chuyện của bà
Theha Thompson ở Nữu Ước.
'Trong thời kỳ chiến tranh,
chồng bà được bổ
nhiệm đến trại huấn
luyện, kế băi sa mạc Mojave
thuộc Tân Mễ Tây Cơ. Bà theo săn
sóc chồng. Thật là buồn nản.
Ngay này đầu, bà đă ghét vùng này,
v́ chưa bao giờ bà phải ở
một xó đất khổ cực đến
thế. Chồng bà suốt ngày lủi
thủi trong căn nhà gỗ lụp
xụp. Trời th́ nóng gần 50 độ.
Bà chẳng có ai ở gần đền
nói chuyện cho khuây khoả, ngoài
mấy người Mễ Tây Cơ và người
da đỏ không biết lấy một câu
tiếng Anh. Gió nóng thổi suốt
từ sáng đến chiều, khiến
cho đồ ăn và cả đến không
khí đầy vị cát.
Bà không chịu nổi nữa. Bà than
số phận chẳng ra ǵ và viết thơ
cho cha mẹ sẽ quay về Nữu Ước,
không thể ở lại cái địa
ngục này. Ông cụ thân sinh trả
lời vỏn vẹn có hai câu, nhưng
thấm thía đến nỗi bà không bao
giờ quên được, và hai câu
đó thay đổi hẳn đời
sống của bà:
Trong một nhà tù, hai người cùng
đứng vịn tay vào song sắt;
một người chỉ trông thấy
một bức tường trơ
trụi, c̣n một người ngửa
mặt lên trời, ngắm những v́
sao.
Bà đọc những ḍng này một
lần, hai lần cho đến mười
lần rồi tự nhiên thấy hỗ
thẹn. Bà quyết sẽ t́m cái vui trong
t́nh cảm của bà: bà quyết
ngắm sao.
Bà làm thân với thổ dân và đă
ngạc nhiên trước cách họ đối
lại. Khi bà tỏ ra thích cái ǵ, món
ăn hay vải dệt, họ lập
tức mang biết bà những thứ
tốt nhất mà chính họ đă
từ chối không bán cho các du khách
hỏi mua. Bà nghiên cứu những h́nh
thức lạ lùng của cây xương
rồng, cây ngọc giá hoa. bà ḍ xét
những cử động, nhưng tính
nết của lũ chó vô chủ, bà
đứng hàng giờ ngắm mặt
trời lặn, huy hoàng và rực rỡ
ở băi sa mạc, bà đi kiếm và tàng
trữ những vỏ hến bị vùi sâu
dưới cát hàng triệu năm trước,
nhưng di tích cuối cùng của
thời kỳ mà băi sa mạc này c̣n là
đáy biển.
Băi sa mạc không thay đổi,
những người da đỏ cũng
vậy. Chính bà đă thay đổi, hay
nói đúng hơn, tinh thần của bà
đă thay đổi, tạo cho bà
một thời kỳ thú vị nhất
trong đời bà. Cái thế giới bà
khám phá ra kích thích bà viết một
cuốn sách tả nó.
Bà dă biết nh́n qua song sắt nhà tù và
bà đă biết ngắm sao lóng lánh trên
trời'.
Bà Thehna Thomas đă khám phá ra một
sự thực ngh́n xưa, đă
được dân Hy Lạp đem ra
dạy đời, 500 năm trước
Thiên Chúa Giáo giáng sinh: 'Những cái
ǵ hoàn hảo nhất là những cái khó
được nhất'.
Cách đây mấy năm, khi tới
một vùng hẻo lánh miền Floride, tôi
đă làm quen với một trại
chủ. ÔNg ta cũng biết pha một ly
nước ngon bằng trai chanh độc.,
Khi lần đầu thấy khoảng
đất mới đă mua được,
ông hết sức thất vọng. Đất
không màu, trông cây không được mà
nuôi heo cũng không được.
Chằng cây nào mọc được
ở đó, ngoài một cây sồi
quắt queo và chẳng vật nào
sống ở đó được,
trừ hàng đàn rắn độc. Sau
ông nghĩ ra một cách làm cho cái khu
đất cằn cỗi, phải chủ
ấy thành một xí nghiệp phồn
thịnh; ông nuôn rắn làm thịt,
đóng hộp bán. Lần tới thăm
ông, tôi nhận thấy mỗi năm có
đến hai vạn du khách đến
xem sở nuôi rắn của ông. Công
cuộc buôn bán thật là phát đạt.
Mỗi tuần, hàng ngàn lo mọc rắn
được gởi đi đến
những pḥng thí nghiệm chuyên môn
chế thuốc viên trư nọc rắn
độc; da rắn được mia
với giá cắt cổ để đóng
giày, làm ví bán cho các bà các cố sang
trong ở tỉnh thành; c̣n thịt
rắn đóng hộp th́ được
gởi từng tàu đến những
thị trường ở khắp nơi.
Tôi có mia được một tấm h́nh
chụp các nhà trong trại, cái làng
nhở mới mọc, hăng diện
với caí tên 'Serphentville, Froride' và
gởi nó để biếu người
đă biết cách pha một ly nước
ngon bằng một trái chanh thật độc.
Trong cuộc tra cứu tâm lư những nhân
vật hiện tại và quá khứ
của Hoa Kỳ; tôi may mắn gặp
được nhiều người đă
biết cách 'chuyển bại thành
thắng'.
ÔNg William Bolitho, tác giả cuốn
'Mười hai người thắng
Thần' tóm tắt nguyên tắc trên này
như vầy: 'Điều cần
thiết ở đời là không phải
biết lợi dụng những thát
thế mới là điều cần
thiết. Muốn được vậy,
phải thông minh và chính cái thiên tư
đó phân biệt khôn với kẻ
ngốc.
Ông Bolitho viết câu ấy sau khi bị cưa
một chân v́ ta nạn xe lửa. Nhưng
tôi lại biết một ngừơi
mất cả hai chân mà c̣n thành công trong
việc chuyển bất lợi thành
thắng lợi:
ÔNg Ben Fortson. Toi quen ông tại Atlanta
(tiểu bang Georgie) nơi khách sạn tôi
ở. Bước vào thang máy, tôi để
ư ngay tới vẻ măn nguyện và vui cười
trên mặt ông. Ông cụt cả hai chân,
ngồi trong góc thang máy trên cái ghế có
bánh xe. Khi thang ngừng ở một
từng nọ, ông xin tôi tránh lối cho
ông đẩy ghế ra: 'Xin lỗi ông, tôi
làm phiền ông quá'. ÔNg nói thế,
rồi nhếch mép cười, một cái
cười hớn hở, đầy nhân
hậu.
Suốt mấu giờ liền, tôi cứ
nghĩ đến con người tàn
tật mà vẻ tự măn đă lộ
ra mặt như vậy. ÔNg vui vẻ
thuật lại không chút ngượng
ngiụ miệng thỉnh thoảng
lại điểm một nụ cười.
Ông gặp tai nạn vào năm 24
tuổi. Một hôm đi chặt
những cây sào để về chông dàn
đậu, khi chất những cây sào này
trên chiếc xe hơi Ford kiểu cổ
xong đâu đấy, ông mở máy quay
về, th́ bỗng một cây sào tuột
xuống gầm xe, mắc vào trục bánh
lái làm chết cứng tay bánh ngay lúc xe
tới một chỗ quẹo khá hẹp.
Chiếc xe cứ thế chạy thẳng
lên lề cỏ và đâm vào một
gốc cây. Bác sĩ khám nghiệm
thấy ông bị thương nặng
ở xương sống làm hai chân ông
liệt hẳn. Từ đó ông muốn
tự động phải ngồi trên
chiếc ghế có bánh xe.
Tôi hỏi ông làm sao mà chịu đựng
t́nh thế một cách cam đảm như
vậy, ông đáp: 'Mới đầu tôi
cũng khổ lắm, tôi cũng kêu than,
cũng thất vọng. Nhưng dần dà
năm này qua năm khác, tôi nhận
thấy rằng tức giận cũng
chẳng ích ǵ, chỉ thêm chán nản.
Những người chung quanh tôi tŕu
mến những người tàn tật như
tôi, th́ ít ra tôi cũng phải tŕu
mến lại họ chứ!'. Khi tôi
hỏi ông c̣n coi nạn kia là một tai
hại lớn không ông lập tức
đáp không và c̣n cho đó là một
diễm phúc nữa.
Ông giải thích rằng qua thời
kỳ đau khổ, ông trấn tĩnh
tinh thần và bắt đầu sống
trong một thế giới mới. Ông
đọc sách và ham mê những áng văn
hay.
Mười bốn năm sau, hơn
một ngàn cuốn sách đă mở
mắt ông trước những chân
trời mới và mang thi vị lại cho
đời ông. Ngoài ra, ông lại bắt
đầu chú trọng tới âm nhạc
cổ điển và ông thấy ḷng rung
động nghe những hoà tấu khúc mà
trước kia ông không ưa. Nhất là
ông lại có th́ giờ suy tưởng.
Ông nói rằng: 'Lần đầu tiên tôi
biết nh́n thế giới bằng con
mắt của người thông minh, hay hơn
nữa, của một triết gia và cũng
lần đầu tôi thấy chân giá
trị của mọi vật. Tôi bắt
đầu hiểu rằng nhiều
mục đích tôi theo đuổi từ
trước chẳng bơ công chút nào
hết'.
Ông đọc sách và nhiễm được
thú nghiên cứu những vấn đề
chính trị kinh tế và xă hội. Ông
khổ công tra cứu đến nỗi
chẳng thấy mấy lúc ông đă có
thể diễn thuyệt và thảo
luận về những vấn đề
đó, dù không lúc nào ông rời
chiếc ghế có bánh xe. Ông bắt
đầu quen nhiều người, và
nhiều người cũng bắt đầu
biết ông. Và nay ông Ben Fortson, người
tàn tật ấy, là Thống đốc
của Tiểu Bang Georgie!
Ba mươi lăm năm làm nghề
dạy người lớn ở Nữu
Ước, tôi nhận thấy một
phần đông học tṛ của tôi
tiếc đă không được
xuất thân do một Đại học
đường. Họ cho rằng không
được mài đũng quần
ghế một Đại Học
đường là một điều
bất lợi. Điều đó chỉ
đúng một phần thôi v́ tôi
biết nhiều người địa
vị rất cao mà không hề đặt
chân vào một trường Đại
Học. V́ vậy, nhiều lần tôi
kể cho họ nghe chuyện một ông
không được học hết
những lớp sơ đẳng trường
làng mà cũng nên danh. Ông là con một nhà
cực nghèo. Khi cha ông qua đời, các
bạn bè phải góp tiền lại mua
giúp cho cỗ quan tài. C̣n mẹ ông
phải đi làm mười giờ
một ngày tại một xưởng máy
chế dù. Không những vậy, bà
lại c̣n đem việc về nhà làm thêm
đến tận nửa đêm.
Tuy sinh sống trong cảnh bần bàn, nhưng
từ nhỏ, ông đă rất ham mê
đóng kịch. Ông gia nhập một gánh
hát tài tử do linh mục làng ông điều
khiển. Mặc dầu duễn trước
một số công chúng ít ỏi, nhưng
được trầm trồ khen
ngợi, ông cũng cảm thấy khoái
trá mênh mông, nên nhất định
sẽ trở thành một diễn
giả. Rồi từ một diễn
giả về những vấn đề
thuộc kịch trường, ông trở
thành một diễn giả về
những vấn đề chính trị. Năm
ba mươi tuổi, ông được
cử vào Hội đồng lập pháp
Tiểu bang Nữu Ước. Nhưng
sức học quá thô thiển của ông
không xứng với một địa
vị khó khăn như vậy. Ông
phải nghiên cứu tỉ mỉ
những bản tài liệu dài và
phức tạp khả dĩ đủ
hiểu để biết đường
mà biểu diễn quyết chống hay
thuật. Khi người ta bầu ông vào
Uỷ ban kiểm lâm, ông, một người
chưa bao giờ trông thấy rừng
tất lo sợ. Ông lại ngạc nhiên
hơn nữa khi ông biết chút ǵ
về ngành tài chính. Ông thú thật
với tôi hổi đó ông chán nản
đến nỗi muốn xin từ
chức ngay, nếu ông không sợ
xấu hổ với mẹ.
Qua cơn thất vọng, ông quyết
học 16 giờ một ngày và làm
một ly nước ngon bằng quả
chanh mà định mệnh đă
đưa lại. Thế rồi ông thành
công, thành công quá tưởng tượng:
từ một chính trị gia c̣m của
địa phương, ông đă trở
thành một trong những nhân vật có
tiếng nhất Hoa Kỳ, một người
mà Nữu Ước thời báo đă
gọi là 'Công dân thành phố Nữu
Ước được nhiều người
yêu chuộc nhất'.
Người tôi nói tới đây là ông
Al Smith, đă giữ chức Thống
đốc Tiểu bang Nữu Ước
trong bốn nhiệm kỳ liền,
một việc tiền khoáng hậy trong
lịch sử xứ này. Nắm 1928, khi
ông đang làm ứng cử viên của
đảng dân chủ trong cuộc
tuyển cử Tổng thống, sáu Đại
học đường- trong số đó
có hai Đại học đường
Columbia và Harward - đă ban những
bằng danh dự cao nhất cho ông
một người chưa học hết
cấp sơ đẳng!
Chính ông đă phải công nhận
rằng chẳng làm nên công chuyện ǵ
nếu đ ă không học mười sáu
giờ một ngày để bù lấp
sự thấp kém của ḿnh.
Ông Nietzche đă định nghĩa '
một người lư tưởng' là:
'người khi bị định
mạng thử thách, không những đă
tỏ ra xuất chúng, mà thời thướng
c̣n thích t́m khó khăn và những
trở lực để đương
đầu'.
Càng nghiên cứu về sự nghiệp
những nhân vật tài ba, tôi càng t́m
thấy những bằng chứng cho
sự tin tưởng cảu tôi rằng
phần đông những nhân vật này
sở dĩ hơn người, là v́
họ ra đời với một điểm
bất lợi mà chính điểm bất
lợi đó đă kích thích họ
cố gắng một cách khác thể
đạt tới những mục đích
cao cả. Ông William James đă nói:
'Những nhược điểm của
ta giúp ta một cách không ngờ'.
Nếu không bị loà, rất có thể
ông Milton chỉ thành một thi sĩ
làng nhàng, chớ không phải là thi sĩ
đại tài như ngày nay, và cũng
rất có thể Beethoven đă không
đi tới chỗ tuyệt đối
của âm nhạc, nếu ông không điếc.
Sự nghiệp hiển vinh của Helen
Keller khác hẳn nhờ v́ bà vừa mùa
vừa điếc.
Nếu Tchaikovsky không bị định
mạng cướp mất hạnh phúc,
nếu ông không gặp phải người
vợ đa nghi, hay thù oán, loại
thần kinh có lẽ chẳng bao giờ
ông sáng tác được bản
nhạc 'Symphonie pathétique', ngàn
năm bất diệt.
Dostoiesky và Tolstoi cũng vậy, nếu
đời sống của hai ông không
đầy rẫy những đau thương,
chưa chắc những tác phẩm
tuyệt diệu của hai ông đă ra
đời.
Charles Darwin, người có những
lư thuyết táo tợn đă đảo
ngược cả quan niệm khoa học
về đời sống ở thế
gian này, đă tuyên bố rơ rệt
rằng sự tàn tật của ông đă
giúp ông một cách bất ngờ. Ông nói:
'Nếu thân tôi không là cái xác vô
dụng, chưa chắc tôi dă có sức
mạnh tinh thần để biểu ḿnh
những lư thuyết của tôi'.
Cùng một ngày Darwin sinh ra một túp
lều không ai biết đến, ở
khu rừng rậm thuộc tiểu bang
Kentucky, một đưa nhỏ khác cũng
cần cất tiếng chào đời.
Cha đứa nhỏ này là lăo tiều
phu nghèo khó Lincoln, và đưa nhỏ
được đặt tên là Abraham. Chính
đứa nhỏ này cũng v́ khổ
cực mà đă sống gắng tự rèn
luyện để trở nên người.
Nếu Abraham Lincoln sinh vào một gia
đ́nh quư phái, được vào
học tại Đại học
đường Harvard, được hưởng
một lạc thú gia đ́nh hoàn toàn, có
lẽ ông đă chẳng thốt ra
những lợi nhiệt thành, tự
đáy ḷng, khi ông tái cử Tổng
Thống Hoa Kỳ: 'Tôi sẽ cố
không xử ác với bất cứ ai và
sẽ đại lượng, bác ái
với mọi người'.
Đến đây, ta hăy ngừng lại
và rút bài luân lư thực hành của
những trường hợp kể trên.
Nếu chưa bao giờ bạn làm
được ly nước ngon lành
bằng trái chanh số phận đă mang
lại, th́ bạn cũng thử xem nào?
Bạn hăy cố gắng, v́ rủi có
thua, bạn cũng chẳng mất ǵ, nhưng
nếu được th́ bạn sẽ vô
cùng hạnh phúc. Bạn phải cố
gắng v́ hai lẽ: một là ít ra
bạn c̣n có cơ thành công, hai là dù
thất bại đi chăng nữa,
sự cố gắng của bạn để
chuyển bại thành thắng đă
bắt bạn nh́n thẳng vào tương
lai mà quên đi dĩ văng. Bạn sẽ
có những lư tưởng thiết
thực và nghị lực sáng tác sẽ
trỗi dậy kích thích bạn làm
việc, đến nỗi bạn không c̣n
th́ giờ mà nghĩ vơ vẩn,
bới đống tro tàn của thời
qua
|
19- Làm sao trị
được bệnh u uất trong hai
tuần
Khi bắt đầu
viết cuốn sách này, tôi đặt
một giải thưởng 200 mỹ kim
cho tác giả nào viết được
một truyện ích lợi và hứng thú
nhất với nhan đề: 'Tôi đă
thắng được ưu phiền cách
nào?'.
Ban giám khảo cuộc thi đó có: Eddie
Rickenbacker, Chủ tịch Hăng hàng không
Eastern Air Lines, Bác sĩ Stewart, W. Mc. Clelland
ở Đại học đường
Lincoln Memorial, và H.V. Kaltonborn, B́nh phẩm
viên của Đài phát thanh Nữu Ước.
CHúng tôi nhận được hai
truyện tuyệt hay, tới nỗi không
sao phân biệt được hơn kém.
Bởi vậy chúng tôi chia giải thưởng
làm hai.
Truyện dưới đây, của ông
C.R. Burton, là một trong hai truyện
ấy.
'Má tôi bỏ nhà tôi hồi chín tuổi
và ba tôi mất hồi tôi có 12 tuổi.
Ba tôi bị bất đắc kỳ
tử, c̣n má tôi th́ từ bỏ nhà
đi, cách đây 19 năm, tôi không
được gặp, cả hai đứa
em gán nhỏ má tôi dắt theo cũng
biệt dạng. Trong bảy năm đầu,
tôi không nhận được bức thư
nào của mẹ hết. Trước khi
ấy, người có sang chung với
một tiệm cà phê trong một tỉnh
nhỏ ở Mixssouri, và trong khi người
bận đi buôn bán ở nơi khác, th́
người bạn kia liền sang
tiệm cà phê lại cho người khác
rồi bỏ trốn mất. Một người
bạn thân đánh dây thép gọi ba tôi
về ngay; và trong khi vội vàng, bà tôi
chẳng may bị xe hơi cán ở
Salines. Hai người cô tôi, vừa già,
vừa nghèo, vừa hay đau, nhận nuôi
ba đứa trong số năm anh em chúng
tôi. Nhưng không ai chịu nuôi tôi và em
tôi hết.
Chúng tôi bơ vơ trong tỉnh. Chúng tôi
rất lo bị người đời
đăi chúng tôi như thường đă
những đứa trẻ mồ côi.
Nỗi lo đó hiện thực ngay. Trong
một thời gian ngắn, tôi sống
nhờ một gia đ́nh nghèo trong
tỉnh. Nhưng thời buổi khó khăn,
v́ ân nhân của tôi mất việc, không
muôi tôi tại trại ruộng, cách
tỉnh độ 13 cây số. Ông Loftin
dắt tôi về nuôi tại trại
ruộng, cách tỉnh độ 13 cây. Ông
Loftin 70 tuổi và đau, nằm ở giường
hoài. Ông biểu tôi: 'Hễ không nói
dối, không ăn cắp và bảo ǵ làm
nấy th́ ở măi được'. Tôi
thuộc lời ấy như lời Thánh
kinh và theo đúng như vậy. Tôi
được đi học, nhưng ngay
tuần đầu, mỗi lần trở
về nhà, la khóc khổ sở. Những
bạn học chọc ghẹo, chế
giễu cái mũi lớn của tôi,
bảo tôi là đồ ngu và kêu tôi là
thằng 'mồ côi tḥ ḷ mũi xanh'.
Tức giận quá tôi muốn đánh
tụi nó, nhưng ông Loftin khuyên tôi
'Biết nhịn và tránh cuộc xô xát,
ẩu đả, là có một nghị
lực tinh thần lớn lắm'. Tôi
nhịn cho tới bữa kia một đứa
nhở hốt băi phân gà trong sân trường
và ném vào mặt tôi. tôi liền xông vào
đánh nó; và đứa khác cho như
vậy là đáng kiếp cho thằng
nọ và từ đó chúng tôi chơi
với nhau.
Tôi lất làm tự đắc có
chiếc nón mà ông Loftin đă mua cho.
Một hôm, một đứa bạn gái
lớn giựt nón tôi đang đội,
đổ đầy nước vào, thành
thử chiếc nón hư. Nó nói 'đổ
nước như vậy để cho
cỏ rác trong đầu óc tôi khỏi
khô'.
Ở trường tôi không bao giờ khóc
hết, nhưng về nhà tôi th́ sụt
sùi kể lể. Rồi một hôm, bà
Loftin khuyên tôi một lời mà tôi
hết ưu uất, lo buồn và từ
đó, kẻ thù của tôi thành bạn
thân của tôi. Bà khuyên thế này: 'Ralph
ơi, bọn đó sẽ không hành
hạ con, không gọi là 'thằng mồ
côi tḥ ḷ mũi xanh' nữa, nếu con
nghĩ tới chúng và t́m cách giúp chúng'.
Tôi theo lời khuyên ấy. Tôi ráng
học, chẳng bao lâu đứng đầu
lớp mà không bạn nào ganh tị
hết, v́ tôi đă t́m hết cách giúp
họ rồi.
'Tôi giúp nhiều bạn làm bài dịch và
bài luận, có khi làm sẵn cả bài
cho nữa. Một đứa mắc
cỡ không dám cho người nhà hay
rằng tôi gà bài cho, nên xin phép má nó
đi săn, nhưng lại nhà tôi,
buộc chó vào lẫm, rồi nhờ tôi
giảng giùm bài học. Tôi chép tập
cho một đứa khác và bỏ
nhiều buổi tối chỉ toán cho
một bạn gái.
Cảnh chết chóc và đau ḷng xẩy
tới bên hàng xóm. Hai người
chủ trại chết, rồi một người
bỏ vợ. Trong bốn gia đ́nh,
chỉ có tôi là đàn ông. Tôi giúp
những người đàn bà goá đó
trong hai năm. Khi đi học và lúc
ở trường về, tôi ghé vào
trại họ, giúp họ bửa củi,
vắt sữa ḅ, cho súc vật ăn
uống. Thành thử không ai chế
nhạo tôi nữa mà cảm tạ tôi.
Khi giải ngũ, ở Hải Quân
về, tôi được rơ cảm t́nh
của họ. Ngày đầu tiên tới
nhà, hơn 200 người lại thăm
tôi, có người đi hơn 120 cây
số, và ḷng họ đối với tôi
thiệt chân thành. V́ tôi chịu khó và
vui vẻ giúp đỡ người khác
cho nên hết sức lo lắng và ưu
phiền. Đă 13 năm rồi, không c̣n
ai gọi tôi là 'thằng mồ côi tḥ ḷ
mũi xanh nữa'.
Đáng khen thay cho C.R. Burton! Anh đă
biết bí quyết đắc nhân tâm và
diệt lo, để vui sống.
Bác sĩ Frank Loope cũng vậy. ông
tàn tật 23 năm v́ chứng sưng
khớp xương. Vậy mà ông Withouse
ở toà Seattle Star đă viết cho tôi:
'Tôi đă lại phỏng vấn bác sĩ
Loope nhiều lần. Chưa bao giờ tôi
thấy một người vị tha
hoặc sung sướng hơn ông ta'.
Ông già nằm liệt giường
ấy làm cách nào mà sung sướng như
vậy? Bạn thử đoán xem. Có
phải bằng cách phàn nàn và chỉ trích
kẻ khác không? Không... Có phải
bằng cách than thân trách phận và
muốn được mọi người
chú ư tới, săn sóc cho không? Không...
Ông sung sướng như vậy chỉ
nhờ biết theo đúng châm ngôn
của Hoàng xứ Galles: 'Tôi phụng
sự'. Ông kiếm tên và địa
chỉ của những người tàn
tật khác và viết những bức thư
vui vẻ an ủi họ để họ
và ông cùng được vui ḷng. Sau cùng,
ông lập một hội ở khắp nước
gọi là 'Hội những người
bị giam tại nhà'.
Nằm trên giường, ông viết trung
b́nh mỗi năm 1.400 bức thư và
kiếm sách cùng máy thâu thanh tặng cho hàng
ngàn người tàn tật để
họ được vui vẻ.
Bác sĩ Loope khác người ở
chỗ nào vậy? Chính ở chỗ ông
có ḷng nhiệt thành của một người
có mục đích, có sứ mạng. Ông
được biết hoan lạc chính
bởi ông phụng sự một lư tưởng
cao cả và ư nghĩa hơn cái đời
sống đáng lẽ rất tầm thường
cảu ông. Ông thiệt không giống ông
Shaw, tự cho ḿnh là trung tâm của
vũ trụ và phàn nàn tại sao
thế giới không tận tuỵ lo
hạnh phúc của ông, để cho thân
ông phải thành 'một cái túi da
chứa bệnh tật và âu sầu'
Alffred Adler, nhà trị bệnh
thần kinh trứ danh, có nói một câu
lạ lùng nhất từ trước
tới giờ. Ông biểu những người
mang bệnh âu sầu rằng: 'Chỉ
trong hai tuần là ông hết bệnh,
nếu ông theo đúng phương
thuốc này: Ráng mỗi ngày kiếm cách
làm vui một người nạ đó'.
Lời ấy có vẻ khó tin quá, cho nên
muốn giảng thêm, tôi phải trích hai
trang trong cuốn sách rất hay: 'ư nghĩa
của đời sống phải ra sao?
'của bác sĩ Adler. Đây là hai trang
đó.
'Bệnh u uất tựa như một thoái
oán hờn dai dẳng, chủ ư để
được người xung quanh luôn
luôn thương hại săn sóc tới
ḿnh. Những kư ức hồi nhỏ
của một người có bệnh
đó đại loại thường có
những cử chỉ ích kỷ như
vầy: 'Tôi nhớ có lần tôi muốn
nằm trên giường, nhưng anh tôi
đă nằm ỳ trên đó rồi. Tôi
la khóc cho tới khi anh tôi phải nhường
giường cho tôi'.
'Những người u uất thường
muốn tự tử và việc cần
nhất cảu y sỹ là tránh cho họ
phương thuốc đầu tiên này:
'Nếu ông không muốn làm việc th́
đừng tự bắt buộc phải
làm nó'. Cốt ư để làm nhẹ
bớt t́nh cảm khẩn trương
của họ đi. Phương thuốc
ấy dường như giản dị
quá, nhưng nó trị được
tận căn chứng bệnh. Khi một
người mắc chứng bệnh u
uất, muốn ǵ đều được
như ư, th́ c̣n trách móc ǵ ai nữa?
C̣n thù oán ǵ nữa mà mong tự tử
để tự trả thù? Tôi nói
với họ: 'Nếu ông muốn đi
coi hát hay muốn đi chơi, cứ
đi. Giữa đường ông không
muốn đi nữa th́ thôi, ngừng
lại. Như vậy, họ được
thoả ḷng hiếu thắng. Họ
thấy họ lớn hơn ông Trời,
v́ muốn làm ǵ th́ làm kia mà! Một
mặt khác, họ thường muốn
áp chế và trách móc mọi người
nhưng nếu ai cũng đồng ư
với họ luôn luôn, th́ họ c̣n áp
ché ai được nữa? Phương
pháp đó có kết quả tốt và chưa
bao giờ con bệnh của tôi tự
tử hết', cho nên tôi sẵn sàng câu
trả lời: 'Ông đă không muốn làm
ǵ th́ cứ việc nghỉ'. Có một
đôi khi họ đáp: 'Tôi chỉ
muốn nằm suốt ngày'. Tôi biết
nếu để họ nằm ở giường
suốt ngày th́ chẳng bao lâu họ
sẽ khó chịu, không muốn nằm
nữa. Bởi vậy tôi chẳng hề
cản. V́ nếu ngăn cảm th́
họ gây rối liền. Tôi luôn luôn
để họ tự tiện. Đó là
qui tắc thứ nhất.
'Qui tắc thứ nh́ là tấn công
trực tiếp cách sống của
họ. Tôi bảo họ: 'Bệnh ông có
thể hết được nếu ông
theo đúng phương sách trong hai
tuần: ông ráng mỗi ngày nghĩ ách làm
vui ḷng một người khác'. Tôi khuyên
vậy là v́ họ thường chỉ
bận óc với ư nghĩ: 'Làm sao cho người
khác bực ḿnh được?' Nghe tôi
khuyên, họ trả lời những câu
rất lư thú. Có người nói: 'Điều
đó dễ lắm. Suốt đời tôi
chỉ t́m cách làm vui ḷng mọi người'.
Thực ra, họ không bao giờ như
vậy cả. Tôi chức họ cũng
chẳng bao giờ nghĩ tới sự
ấy. Tôi lại khuyên: 'Khi nào không
ngủ được, th́ ông nghĩ cách
làm vui ḷng một người khác, ông
sẽ mau hết bệnh lắm'.
Tất nhiên tôi dặn họ phải làm
vui ḷng ngừơi một cách nhũn
nhặn, thân ái.
Hôm sau gặp họ, tôi hỏi: 'Hồi
hôm, ông có nghĩ tới lời tôi khuyên
nhủ không?' Họ đáp: 'Vừa đặt
ḿnh tôi đă ngủ rồi, thành
thử không nghĩ tới được'.
Ngủ được c̣n ǵ hơn
nữa?
Có người trả lời: 'Tôi không
sao theo lời ông được, v́ tôi
nhiều nỗi lo quá rồi'. Tôi bảo
họ: 'Th́ ông cứ lo việc ông đi;
nhưng đồng thời, ông có
thể thỉnh thoảng lo cho người
khác được. Như vậy tôi
dần dần tập cho họ chú ư
tới người.
Lại có nhiều người nói: 'Tôi làm
vui ḷng họ làm chi? Họ có nghĩ cách
làm vui ḷng tôi đâu?' Tôi đáp: 'V́ như
vậy lợi cho sức khỏe của
ông. C̣n họ th́ rồi họ chú ư
tới người.
Rất ít khi tôi gặp được
một bệnh nhân chịu nói : 'Tôi
đă nghĩ tới lời ông khuyên'.
Tôi biết rằng bệnh của họ
chỉ do không chịu hợp tác với
đời, nên tôi muốn họ nhận
thấy điều ấy là cần. Khi nào
họ bằng ḷng hợp tác với người
một cách b́nh đẳng th́ họ
sẽ hết bệnh... Bổn phận
quan trọng nhất của những tín
đồ bất cứ đạo nào
vẫn là: 'Thương người như
thể thương thân'... Người nào
ích kỷ không nghĩ tới bạn bè,
sẽ gặp những nỗi khó khăn
nhất... Chúng ta chỉ cầu sao cho
mỗi người thành một bạn
tốt, yêu và trong hôn nhân. Được
như vậy, không c̣n ǵ hơn nữa'.
Vậy bác sĩ Adler khuyên ta mỗi ngày
làm một việc thiện. Mà thế bào
là một việc thiện? Mohanet nói:
'Một việc thiện là một
việc làm nở một nụ cười
trên môi người khác'.
Tại sao làm việc thiện mỗi ngày
lại có ảnh hưởng tốt
tới tâm hồn ta? V́ khi nghĩ cách làm
vui người khác, ta không nghĩ
tới ta nữa; mà chính cái tật
chỉ nghĩ tới ḿnh đă làm cho ta
ưu tư, sợ sệt và lo lắng.
Bà William T.Moon, giám đốc một trường
học ở Nữu Ước không
cần phải mất tới hai tuần
mới kiếm được hầu
diệt nỗi ưu tư của bà. Bà
thắng bác sĩ Adler, v́ thây được
kết quả nhanh gấp 14 lần. Nói
thế nghĩa là bà diệt ưu tư
của bà chỉ trong một ngày, chứ
không cần tới 14 ngày, nhờ bà nghĩ
cách làm cho hai đứa trẻ mồ côi
được vui sướng.
Bà kể: 'Năm năm trước,
một hôm vào tháng chạp, tôi thấy tâm
hồn ch́m đắm trong biển ưu
tư.Tôi than thân trách phận của v́
tôi đă sống nhiều năm đầy
hạnh phúc với nhà tôi, rồi tô th́nh
ĺnh nhà tôi mất. Lễ Giáng sinh càng
tới gần, tôi càng thấy buồn
tẻ. Chưa bao giờ tôi ăn lễ
đó trong cảnh cô độc, cho nên năm
ấy tôi thấy nó tới mà ghê. Càng
cận ngày, tôi càng đau đớn cho
thân phận. Thiệt ra đời tôi cuĩng
như đời hết thảy chúng ta c̣n
được nhiều nỗi đáng
vui. Ngày giáp lễ Giáng sinh, tôi ở
sở ra hồi ba giờ chiều và thơ
thẩn trên địa lộ thứ 5
để t́m sự khuây khoả. Bấy
giờ trên đường chật ních
những người qua lại, vẻ
mặt rất hân hoan. Càng trông họ, tôi
lại càng nhớ những năm sung sướng
đă qua. Nghĩ tới sự phải
về giam ḿnh trong một căn pḥng
lạnh lẽo và trống trải, tôi không
chịu nổi. Tôi sợ hăi không
biết nên làm ǵ nước mắt
chảy ṛng ṛng. Sau khi đi lang thang
khoảng một giờ như vậy, tôi
tới cuối một con đường
ô tô buưt, Nhớ lại hổi trước
hai vợ chồng thường leo lên
một chiếc xe thứ nhất ở
bến. Xe chạy qua sông Hudson được
một lát, tôi nghe người bán vé nói:
'Tớ cuốn đường rồi, thưa
cô'. Tôi xuống xe. Tôi cũng không
biết tên nơi đó nữa, nhưng
thấy cảnh tĩnh mịch yên
ổn. Trong khi đợi chuyến xe
về, tôi đi ngược một con
đường có nhiều nhà cửa
sang trọng. Đi ngang một nhà
thờ, nghe tiếng đờn du dương
đánh bản: 'Đêm tĩnh mịch',
tôi bèn vo. Trong nhà thờ không có ai
hết, trừ người đánh đờn.
Tôi lẳng lặng ngồi xuống
ghế mà không ai hay. Cây No-en trong hoàng
đẹp đẽ, chiếu sáng ra làm
cho những đồ cần thiết chói
lọi như những ngôi sang lấp lánh
dưới ánh trăng. Nghe âm thanh
dịu dang của bản đờn và
bụng lại đói- v́ từ sáng chưa
ăn ǵ - tôi thiu thiu ngủ, giữa lúc
tinh thần và thể chất đều
mệt mỏi
'Tỉnh dậy, tôi không c̣n nhớ tôi
đang ở đâu nữa. Tôi thấy
trước mặt có hai đứa
nhở quần áo tồi tàn, chắc
lại để ngắm cây Nô-en. Đứa
gái chỉ tôi nói: 'Không biết có
phải ông già No-en mang cô này lại không?'
Thấy tôi ngửng đầu mở
mắt, cả hai đứa đều
sợ. Tôi vội bảo cho chúng yên tâm.
Đoạn hỏi đến cha mẹ.
Chúng đáp: 'Chúng em không có ba má'.
Vậy ư? Vậy th́, trời ơi!
hai đứa nhỏ c̣n khổ hơn tôi
nhiều. Thấy chúng thế rồi nghĩ
đến tôi nghĩ tới tôi thế này
mà c̣n than thân trách phận, tôi thấy
thua chúng. Tôi để chúng coi cây No-en
xong, dắt chúng lại một tiệm nước
để giải khát, và mua cho chúng ít
kẹo, đồ chơi. Nỗi cô
đơn của ḷng tôi tự nhiên
biến mất. Đă mấy tháng nay,
nhờ hai đứa con mồ côi ấy,
tôi quên hẳn cảnh ngộ tôi đi và
được vui vẻ quá. Trong khi
hỏi chuyện chúng, toi nhận thấy
rằng muốn được hạnh phúc,
ta phải gây hạnh phúc chung quanh ta. Ta
phân phát hạnh phúc tức là nhận
được hạnh phúc vậy. Do
sự giúp đỡ người và do t́nh
thương, tôi đă thắng ư tư
và thói than thân trách phận. Tôi thấy
đời tôi thay đổi hẳn
chẳng những lúc ấy mà cho tới
mấy năm sau nữa'.
Vậy ư? Vậy th́, trời ơi!
hai đứa nhở c̣n khổ hơn tôi
nhiều. Thấy chúng thế rồi nghĩ
tới tôi thế này mà c̣n than thân trách
phận, tôi thấy thua chúng.
Tôi biết nhiều người nhờ
quên ḿnh mà t́m thấy sức khoẻ và
hoan hỉ. Nếu kể chuyện họ,
có thể viết thành một cuốn sách
được. Như trường
hợp của bà Margaret Taylor Yetes chẳng
hạn,một người đàn bà
nổi danh nhất trong giới Hải Quân
Hoa Kỳ. Bà là một tiểu thuyết
gia, nhưng không có truyện trinh thám nào
bà viết hay bằng nửa câu
chuyện thiệt xảy ra, ngày quân
đội Nhật Bảm tân công hạn
đội Mỹ ở Trần Châu
Cảng. Lúc ấy bà đă bị
bệnh đau tim hơn một năm
rồi. Mỗi ngày bà phải nằm
liệt giường đến 22
giờ, kỳ dư chỉ được
nhiều lắm là từ pḥng ra vườn,
để tắm nắng. mà đi như
vạy phải vịn tay người
ở gái. Hồi đó bà tưởng
sẽ tàn tật tới măn đời.
'mà thiệt ra - lời bà nói- quân
Nhật không tấn công Trân CHâu Cảng
và làm cho tôi xúc động mạnh
tới nỗi khỏi bệnh, th́ có
lẽ đời tôi tuy sống cũng như
chết. Khi quân Nhật tấn công,
cả châu thành hỗn loạn. Một trái
bom rớt gần nhà tôi làm tôi bắn ra
khỏi giường. Xe cam nhông binh đội
chạy lại cá trại ĺnh ở Hickam
Field, Scofield và phi trường Kaneohe Bay,
để chở vợ con của bộ
bih và thuỷ binh vô ở trong các trường
học. Đồng thời, hội
Hồng thập tự kêu điện
thoại hỏi từng nhà xem có pḥng dư
và thuận cho những người gia cư
bị tàn phá đó tới ở đậu.
Hội biết tôi có máy điện
thoại ở đầu giường,
nhờ tôi thông tin giúp hội. Tôi ghi
chữ nơi mà vợ con binh lính có
thể lại ở tạm và đáp
những câu hỏi vè g gia quyến
của họ.
Ngay bấy giờ tôi đă được
biết chồng tôi là Hải Quan trung tá
Robet Raleigh Yate vô sự. Tôi ráng làm cho
những người vợ chưa có tin
tức về chồng họ được
vững dạ và tôi an ụi một
số đông đàn bà goá - chao ôi, có
đến hai ngàn một trăm mười
bảy sĩ quan, hạ sĩ quan và quân
lính trong Lục quân, Hải quân tử
trận và 960 người mất tích.
'Mới đầu, tôi phải nằm
để trả lời điện
thoại. Rồi tôi ngội dậy lúc nào
không hay. Sau cùng bận việc và hăng
hái quá, tôi quên hết bệnh tật, ra
khỏi giường đến ngồi
ở bàn. V́ mải giúp những người
khác khổ sở hơn ḿnh nhiều, nên
tôi quên hẳn tôi đi. Thế rồi
từ tám giờ ngủ ra, ngày cũng như
đêm, không bao giờ tôi nằm ở
giường nữa. Bây giờ tôi
nhận thấy rằng nếu quân
Nhật không tấn công Trân Châu Cảng
th́ tôi đă thành một người bán
tàn tật suốt đời. Nằm
ở giường dễ chịu quá, luôn
luôn có người hầu hạ, nên
bấy lây tôi đă tự làm cho tiêu tan
cái ư muốn khỏi đau mà không hay.
'Trận Trân Châu Cảng là một bi
kịch bản thương nhất trong
lịch sử Mỹ, như riêng đối
với tôi, nó là một may mắn.
Cuộc khủng hoảng ấy đă
đă cho một sức mạnh mà không
bao giờ tôi ngờ có được. Tôi
không nghĩ tới tôi nữa mà chuyên chú
vào người khác. Tôi có một
mục đích lớn lao, quan trọng,
cốt yếu. Tôi không có th́ giờ nghĩ
tới tôi, lo lắng cho tôi nữa'.
Một phần ba những người
bệnh thần kinh có thể tự
trị được nếu họ làm
theo Margaret, nghĩa là nghĩ tới
sự giúp đỡ khác. Đó không
phải là ú của tôi mà là của Carl
Jung. Mà Carl Jung biết rơ điều
ấy hơn ai hết. Ông nói: 'Một
phần ba con bệnh của tôi đau không
phải v́ bệnh, mà v́ đời
sống của họ vô nghĩa và
trống rỗng. Nói một cách khác,
họ muốn đi du lịch trên
đường đời, nhưng
trễ tàu, nên đời họ hoá ra
nhỏ mọn, vô ích, khiến họ chay
đi kiếm một nhà chuyên trị
bệnh thần kinh. V́ lỡ tàu họ
đứng trên bến mà trách hết
thảy mọi người - từ
họ ra- và muốn cho cả thế
giới săn sóc họ, làm thoả
hững ư muốn ích kỷ của
họ'.
Chắc bạn tự nhủ: Nhưng
chuyện đó có chi lạ lùng đâu?
Nếu gặp hai đứa trẻ
mồ côi đêm Giáng sinh, th́ ta cũng
thương chúng được; nếu
ở Trân Châu Cảng, ta cũng vui
vẻ làm như Margaret Taylor Yates
rồi. Nhưng cảnh ngộ của ta
khác: ta sống moot đời tầm thường
quá. Ta không gặp cảnh ǵ bi đát
cả. Vậy th́ làm sao giúp ta người
được? Và tại sao lại giúp
họ chứ? Có lợi ǵ cho ta đâu?'.
Câu hỏi đó có lư. tôi xin đáp. Dù
đời bạn cũng gặp một vài
người lạ. Bạn đối
với họ ra sao? Bạn lănh đạm,
dám ngó họ, hay cảm thương
tự hỏi họ có uẩn khúc cho mà
chán chường đến vậy? Như
người phu trạm chẳng hạn,
mỗi năm đi hàng trăm cây
số, mang thơ lại tận nhà
bạn, có bao giờ bạn thấy thương
người đó hoặc tha thiết
muốn biết t́nh cảm họ ra sao không?
Có bao giờ hỏi họ 'đi
nhiều như vậy có mệt, có chán
không?'C̣n người bán hàng ơ
tiệm tạp hoá, người báo cáo,
người đánh giầy cho bạn
ở góc đường nữa? Họ
đều là người như ta, trong
đầu cũng đầy nhưng lo
lắng, mơ mộng và hoài băo riêng.
Họ cũng mong gặp được
người tri kỷ để kể
lể tâm sự, nhưng có bao giờ
bạn để họ kể lể tâm
sự họ không? Đó. Tôi muốn
bạn giúp đỡ người theo cách
ấy. Bạn không cần phài là một
danh ca hoặc một nhà cải cách xă
hội mà cũng có thể giúp đời
trong khi vực riêng của bạn
được. Ngay sáng mai, bạn hăy giúp
những người mà bạn gặp
đi.
Giúp như vậy bạn được
lợi ǵ? Bạn sẽ hân hoan hơn
nhiều, sẽ được măn ư và hài
ḷng về bạn rất nhiều! Aristote
gọi thái độ ấy là một
'thứ ích kỷ sáng suốt'. Zoroastre
nói 'Làn việc thiện không phải là
một bổn phận mà là một
nguồn vui, v́ nó tăng sức khỏe
và hạnh phúc của ta'. Và Benjamin
franklin tóm tắt ư ấy trong lời nói
giản dị này: 'Anh thương người
tức là anh rất thương anh
vậy'.
Ông Henrry C.Linhk, giám đốc Sở Tâm
Lư ở NữuƯớc viết:'Theo
toi, trong thời đại, không có phát
minh về tâm lư nào quan trọng bằng
sự chứng minh khoa học rằng
biết hy sinh và có kỷ luật là hai
đức tính cần thiết cho sự
thành công và hạnh phúc của chúng ta'.
Khi chăm chú tới ước vọng
của người, không những ta quên
lo lắng, ưu tư của ta, mà
nhờ đó, ta c̣n có rất nhiều
bạn và rất vui vẻ nữa.
Tại sao vậy? Th́ đây: Một
lần tôi hỏi giáo sư William Lyon
Phelps ở Đại Học đường
Yale về điều ấy. Ông đáp:
'Không bao giờ tôi vào một tiệm cao
lâu, một tiệm hớt tóc hoặc
một cả hàng mà không nói một cau làm
vui những người tôi gặp. Tôi rán
tỏ rằng tôi coi họ là người
chứ không phải chiếc bánh xe trong
một máy. Tôi thường khen cô hán hàng
có cặp mắt hoặc mớ tóc đẹp.
Hoặc toi hỏi người thợ
hớt tóc đứng suốt ngày có
thấy mệt không. Có khi tôi hỏi
tại sao họ lại lựa nghề
đó, học nghề từ hồi nào và
đă hớt được bao lâu cái
đầu rồi. Tôi chỉ cho họ cái
tính. toi thấy rằng hỏi thăm
họ vậy th́ họ tươi cười
vui vẻ. Tôi thường bắt tay phu xách
h hành lư cho tooid dể anh hăng hái và tươi
cười suốt ngày. Có một
buổi hè nóng nực vô cùng, tôi ăn
bữa trưa trong một toa xe lửa
của Công ty New Haven Railway. toa chật
cứng khách và nóng như ḷ, mà người
hầy bàn lại chậm chạp. Đến
lúc người này mang thực đơn
lại tôi nói: 'Trời như hôm nay mà
phải nấu ăn trong bếp nóng,
chắc khổ lắm nhỉ?' Anh ta
liền chua chát chửi thề. Mới
đầu tôi cứ tưởng anh đă
đổ quạu. Nhưng anh ta nói:
'Trời cao đất dầy!! Hết
thẩy khách ăn đều phàn nàn
về món ăn dở, sự hầu bàn
chậm chạp, trời nóng, giá cao. Tôi
dă nghe họ chỉ trích 19 năm
rồi. Ông là người đầu tiên
về độc nhất tỏ ḷng thương
hại cái kẻ ở trong bếp nóng như
thiêu. Cầu trời cho có nhiều khách
ăn như ông'.
Người hầu bàn ngạc nhiên
thấy người da đen như anh cũng
được coi như người
chứ khong như những bánh xe của
công ty xe lửa. Giáo sư Phelps tiếp:
'Ai cũng cần được chú ư
tới ḿnh một chút và tỏ t́nh
đồng loại với ḿnh. nếu
gặp một người dắt một
con chó đựp ở ngoài đường,
luôn luôn khen con chó đẹp. Và khi tôi
quay lại th́ thường thấy
ngừơi kia vuốt ve, ngắm nghía nó.
Nghe lời tôi khen, người ấy
nhớ lại vẻ đẹp của
con vật.
'Một lần, ở nước Anh, nhân
gặp một người chưn
trừu, tôi thành thật khen con chó
của anh lớn và thông minh. Rồi anh
ta dạy dỗ nó ra sao. Sau lúc từ
biẹt, toio ngó lại th́ thấy con chó
đứng thẳng, hai chân trước
vịn lên vai chỉ, để chủ
vuốt ve. Tôi chú ư đến anh ta và
con chó được nâng niu mà tôi cũng
được vui ḷng nữa.
Bạn có thể tưởng tượng
một người đi bắt tay
những anh phu vác, tỏ ḷng thương
hại những người làm trong
bếp nóng như thiêu và khen chó của
người, bạn có thể tưởng
tượng được ngừơi
như vậy mà chán chường
hoặc ưu tư và bị bệnh
thần kinh được không? Tất
nhiên là không. Một tục ngữ Trung
Hoa nói: 'Người nào cầm bông
hồng mà biếu bạn, luôn luôn tau người
đó phảng phất hương thơm...'.
Điều ấy, Billy Phelps ở Yale
đă biết rơ và ông đă sống
đúng theo đó. Ta khỏi phải
chỉ cho ông nữa.
Nếu bạn là đàn ông, bạn không
cần phải đọc đoạn dưới
này; không có lợi ǵ cho bạn lắm,
v́ đó là chuyện một cô con gái
khỏo sở mà được nhiều
người hỏi làm vợ. Cô ấy bây
giờ là một bà già đă có cháu
nội rồi. Mấy năm trước
có lần t tôi lại nghĩ một
đêm tại nhà hai vợ chồng bà. Tôi
diễn thuyết ở tỉnh bà và sáng
hôm say, bà đánh xe đưa tiễn tôi
tới mọt ga xe lửa cách đó 80 cây
số, để về Nữu Ước.
Chúng tôi bàn về cách đắc nhân tâm.
Bà nói: 'ÔNg Carnegie, tôi thuật cho ông nghe
một chuyện mà từ trước
tới nay tôi chưa nói, cả với nhà
tôi nữa. gia đ́nh tôi là một
vọng tộc ở Philadelphie. Bi kịch
hồi tuổi thơ và tuổi xanh
của tôi là cảnh nghèo. Tôi không
được sang trọng như chị
em cùng ḍng thế phiệt như tôi,.
Quần áo tôi th́ bằng vải thô,
vừa chật, vừa không hợp
với h́nh vóc, cố nhiên lại không
đúng thời trang nữa. Tôi lấy làm
nhục nhă , xấu hổ tới nỗi
nhiều đếm nằm thổn
thức. Về sau thất vọng quá, nên
trong những bữa tiệc, tôi luôn luôn
cố t́nh xin người bên kể cho
nghe những kinh nghiệm, lí tưởng
và dự định về tương
lai cảu họ. Không phải tôi thích
nghe họ đâu. Tôi cốt hỏi như
vậy để họ khỏi ngó vào
bộ áo tồi của tôi mà. Nhưng
một điều lạ lùng xảy ra:
nghe lời đáp của những chàng
trai trẻ, tôi hiểu nhiều và v́ chú
ư tới câu chuyện, có khi tôi quên
hẳn bộ cánh của tôi đi. Nhưng
tới câu chuyện, có khi tôi quên
hẳn bộ cánh của tôi đi. Nhưng
điều đó chưa bằng điều
này: v́ chăm chú nghe và khuyến khích
họ nói về họ, nên đă vô t́nh
làm cho họ vui ḷng. Thế rồi
dần dần tôi được người
ta để ư tới tôi nhất trong
bọn chị em cùng giới. Sau đó, có
ba chàng trong bọn hỏi cưới tôi'.
(Quư cô nghe chưa, đó là cách kiếm
chồng đó).
Vài bạn đọc chương này
chắc bĩu môi nói: 'Không có ǵ vô lư
bằng cả đoạn khuyên nên chú ư
tới người khác ấy, Hoàn toàn là
thuyết pháp. Ta chẳng dại ǵ mà
nghe. ta muốn thu cho đầy túi, vơ
được cái ǵ th́ vơ, vơ ngay
bây giờ. C̣n những kẻ khác?
mặc xác họ!'.
Nếu đó là ư kiến của bạn
th́ bạn có quyền giữ nó. Nhưng
nếu bạn có lư thuyết th́ hết
thẩy những triết gia và giáo
dục gia từ hồi nhân loại có
sử tới giờ hẳn lầm
lần cả rồi. Tuy nhiên, bạn có
thể khinh lời huấn hỗ của
các bậc giáo chủ. Vậy để
tôi xin kể lời khuyên của hai người
theo thuyết giáo thần. Người
thứ nhất là ông A.E Housman, giáo
sư ở Đại học đường
Cambridge, một trong những nhà sư
phạm nổi danh nhất thời ông. CHính
giáo sư Housman là mọt người
theo thuyết vô thần, một người
chán đời đă có lần muốn
tự tử mà cũng phải nhận
rằng kẻ nào chỉ nghĩ tới ḿnh
thôi th́ đời chẳng những không
sung sướng, không thành công được
mà kẻ đó sẽ khổ sở. c̣n
kẻ nào quên ḿnh để giúp đỡ
người khác sẽ t́m thấy
hạnh phúc.
Nếu lời A-E. Housman không làm cho
bạn cảm động th́ tôi xin
kể lời của một người
Mỹ nổi danh nhất ở thế
kỷ này, trong số những người
theo thuyết vô thần: Theodore Dreiser. Ông
chế nhạo tất cả các tôn giáo,
cho rằng Thánh kinh chứa toàn những
chuyện hoang đường và đời
người là một 'chuyện do
mọt thằng khùng kể, đầy
những lời rỗng tuếch, vô nghĩa
và những hành động hung hăng
của những kẻ hoá dại'.
Vậy mà Dreiser bênh vực một nguyên
tắc căn bản là giúp đỡ
kẻ khác. Ông nói: 'Nếu ta muốn
kiếm một chút vui trên cơi trần, ta
phải thực hành những nghĩa
cử tốt đẹp, không những
để lợi cho ḿnh tuỳ mà
cần nhất lợi cho kẻ khác
nữa, v́ cái vui của ḿnh tuỳ
thuộc vui của kẻ khác, cũng như
vui của kẻ khác tuỳ thuộc vui
của ḿnh'.
Nếu chúng ta muốn 'làm những nghĩa
cử tốt đựp cho kẻ khác'-
như Dreiser đă khuyên - th́ chung ta hăy làm
mau đo. Không có th́ giờ để phí.
Cho nên có thể làm được
việc thiện nào, có dịp tỏ
được ḷng vị tha th́ phải
làm ngay. Đừng tŕ hoăn, đừng
xao nhăng, v́ chúng ta sẽ không bao giờ
trở lại con đường chúng ta
đă trải qua'.
|
20- Hăy gác những
lời chỉ trích ra ngoài tai
Một bữa kia, tôi có dịp
phỏng vấn tướng Smealay Butler, 'ông
già quạu', một nhân vật huênh hoang
nhưng đặc biệt nhất
của thuỷ quân lục chiến Hoa
Kỳ.
Ôg thuật với tôi rằng hồi
thiếu niên, ông hết sức ước
ao được yêu chuộng và lừng
danh. Hồi đó, ai hơi chỉ trích
ông là ông phật ư, nổi nóng ngay. Nhưng
ông thêm rằng: 'Ba mươi năm
sống trong Hải Quân đă làm cho tôi
thành mặt dày mày dạn'. Người
ta nói xấu, lăng mạ tôi đủ
cách; người ta gọi tôi là chó
dại, là rắn hổ, là đồ
khốn. Những nhà chuyên môn nguyền
rủa, đưa tôi ra bêu rếu trước
công chúng. Người ta dùng những
lời tục tĩu nhất trong
tiếng Anh để thoá mạ tôi.
Vậy mà tôi chẳng hề nổi nóng.
Đến nay có đứng ngay sau lưng
mà nói cạnh nói khoé, tôi cũng không
quay lại để xem là ai nói'.
Có lẽ ông già đó chẳng coi
những phỉ báng ông vào đâu. Nhưng
điều chắc chắn là phần
đông chúng ta không chịu để ai
động đến lỗ lông chân
của ḿnh, Nhớ cách đây khá lâu,
một lần toio đă nổi nóng v́
một kư giả tờ Nữu Ước
Nhật báo đă châm biếm tôi sau khi
đến nghe tôi giảng bài trong
một lớp học tṛ lớn tuổi.
Tôi cho những lời kư giả đó là
phỉ báng riêng tôi. Tôi gọi điện
thoại ngay cho viên chủ bút tớ báo
này, bắt phải đăng một bài
cải chính, trong đó phải ghi
những kết quả tôi đă thâu
hoạch được do phương pháp
giáo huấn của tôi - và lẽ cố
nhiên, tôi cho việc nhạo báng này là
một trọng tội.
Bây giờ, nghĩ lại, tôi không
biết có nên hănh diện về xử
sự này không, 50 phần trăm số
độc giả tờ báo này, chắc
cũng chẳng để ư đọc bài
đó. C̣n những người đến
th́ phần đông cũng coi là câu
chuyện phiếm hay khôi hài, chẳng có
ǵ là thâm độc. Mà những người
đọc qua bài đó, một tuần
sau chắc chẳng c̣n nhớ đến
nữa.
Bây giờ tôi biết rằng ở đời
chẳng ai để ư đến ḿnh
cả và có nghe nói ǵ về ḿnh, họ
cũng thấy kệ. Họ sớm
tối chỉ nghĩ đến họ. Nói
chẳng riêng một ai, một người
nhức đầu trong năm phút
thấy ḿnh đau đớn gấp trăm
ngàn lần khi được tin bạn
hay là tôi chết.
Cho rằng có vu oan, nhạo báng, lừa
dối hay chơi khăm bạn, và cho
rằng người đó là bạn thân
đi nữa, bạn cũng đừng nên
than thân trách phận.
Cách đây khá lâu, tôi đă khám ra
một điều quan trọng: 'Khi đă
không thể ngăn cấm người
chỉ trích tôi một cách bất công,
th́ tôi có thể làm một việc ích
lợi hơn, chẳng nên để
những lời chỉ trích vô lư đó
làm ḿnh bực dọc'. Để tránh
mọi sự hiểu lầm, tôi xin
giải thích: Tôi không khuyên bạn hoàn
toàn bỏ ngoài tai mọi lời chỉ
trích. Tôi chỉ khuyên bạn khinh thường
những lời chỉ trích vô căn
cứ. Tôi có lần hỏi bà Roosevelt
về thái độ của bà khi bị
chỉ trích một cách vô lư, v́ biết
đâu bà chẳng có lần bị như
vậy. Ai cũng biết bà có nhiều
bạn thành thực, nhưng cũng có
nhiều kẻ thù hơn bất cứ người
đàn bà nào đă ở toà Bạch
ốc.
Bà thuật lại ràng, thời niên
thiếu, bà hết sức nhút nhát, luôn
luôn lo lắng, sợ những lời ra
tiếng vào. Đến nỗi một ngày
ḱa, bà đánh liều hỏi một bà
cô, là chị ông Théodore Roosevelt rằng:
'Cô ơi! Tôi muốn làm việc này quá
nhưng chỉ sợ bị chỉ trích
thôi'.
Bà cô nh́n thẳng vào cô con gái bẽn
lẽn một lúc khá lâu, rồi trả
lời: 'Khi con biết rơ việc con làm là
hợp lẽ, con đừng để ư
đến lời bàn tán của thiên
hạ'.
'Lời khuyên này, - lời bà Eleanor
Roosevelt- đă trở thành căn bản
cho mọi hành dộng của tôi khi tôi
đến ở Toà Bạch ốc và
trở nên Đệ nhất Phu nhân nước
Hoa kỳ. Theo ư tôi, không một ai
giữ quyền cao chức trọng mà không
bị thiên hạ chỉ trích, trừ khi
người đó ngồi yên như bù
nh́n. Lời dạy của tôi thật chí
lư, v́ làm thế nào đi nữa rồi
cũng bị chỉ trích. NGười th́
sẽ chỉ trích tôi v́ đă làm
việc này việc nọ, người khác
sẽ xâu xé tôi, chính v́ tôi không làm
việc đó'.
Một hôm, trong một cuộc đàm
luận, tôi hỏi ông Mathieu Brush, Chủ
tịch Công ty Quốc tế tại Wall
Street rằng ông có dễ bị ảnh hưởng
bởi những lời chỉ trích mà
một người ở một địa
vị như ông nhất định
sẽ phải chịu không. Ông trả
lời, lúc đầu, ai hơi chỉ trích
là ông phải nghĩ ngợi ngay. Hồi
đó, ông cố làm sao để tỏ
ra hoàn toàn đối với mỗi nhân
viên làm việc dưới quyền ông.
Hễ ai lên tiếng phản đối
một việc ǵ là ông liền lo làm cho
người đó vừa ḷng. Nhưng
khi ông cố gắng làm cho người này
vừa ḷng th́ lại làm người khác
mất ḷng, sau ông mới khám phá ra
rằng: 'Càng t́m cách tránh chỉ trích,
lại càng làm cho nhiều người ghét'.
Một ngày kia ông tự nhủ: 'Anh già
khù khờ kia ơi, kho anh đă bước
lên một địa vị hơn người,
anh phải chịu những lời
chỉ trích, tránh thế nào được.
Tốt hơn là anh nên tập cho nó quen
đi'. Từ đó ông tự vạch ra
một con đường và nhất
định theo đúng nó. Ông nỗ
lực làm việc, làm những việc ǵ
mà ông cho là đáng làm, sau đó, mũ
ni che tai, ông thản nhiên đi theo con
đường đă vạch, ai trách móc
mặc ai!'.
Tôi biết một ông, c̣n giỏi hơn
ông Brush nữa: ông không cần phải dùng
mũ ni để che tai. Người ta càng
chỉ trích, ông lại càng công nhiên
tỏ ra không cần. Ông là Deems Taylor, nhà
b́nh luận chính trị hằng tuần
tại đài bá âm. Một ngày kia,
một thiếu phụ gởi ông bức
thư trong đó tặng ông những danh
từ 'dối trá, phản bội,
khốn nạn'. Tuần sau, ông Taylor mang
đọc bức thư đó trước
máy truyền thanh và nói thêm rằng: 'Tôi
có cảm tưởng thiếu phụ này
không ưa chương tŕnh phát thanh
của tôi th́ phải'. Hai ba ngày sau, ông
lại nhận được bức thư
nữa của thiếu phụ và bà ta
quả quyết rằng, mặc dầu khéo
che đậy thế nào đi nữa, ông
cũng vẫn là một kẻ 'dối trá,
phản bội và khốn nạn'. Ta khó
mà không thán phục một người
đă 'chịu đựng' được
những lời chỉ trích ấy
một cách b́nh thản, đầy tin tưởng
ở ḿnh, với một ư vị khôi hài
như vậy.
Ông Chartes Schwab có tuyên bố trong một
buổi diễn thuyết trước các
sinh viên Đại học đường
Princetowm rằng người đă
dạy ông một bài học hữu ích
nhất là một ông thợ già người
Đức, làm trong nhà máy Thesd Schwab. 'Câu
chuyện xảy ra trong đại
chiến thứ nhất. ông lăo người
Đức đă dại mà tranh luận
vứi các bạn về chính trị.
Tiếng qua tiếng lại rồi sinh ra
căi nhau và sau cùng những người
thợ Hoa Kỳ đem vứt bơi vào
bờ và khi vào bàn giấy tôi, ông ta c̣n
ướt như chuột, lem luốc
những bùn. Tôi hỏi ông đă nói ǵ
khi bị xử tệ như vậy, ông
đáp: 'Tôi chỉ cười thôi'.
Ông Schab từ đó lấy câu ấy làm
châm ngôn hành động. Ai nói ǵ ông cũng
theo gương ông lăo người Đức
kia mà 'chỉ cười thôi'. Đó
quả là một châm ngôn quư báu khi ta
cần phải đương đầu
với những lời chỉ trích vô căn
cứ. Lẽ cố nhiên, bạn có
thể đối đáp lại, nếu
bạn chỉ yên lặng và tỏ
vẻ khinh bỉ, kẻ chỉ trích c̣n
biết nói ǵ nữa?
Tổng thống Lincoln chắc không
thể đảm nhận nổi
những trọng nữa. Tôi làm những
việc mà tôi có thể làm được,
không tiếc công tiếc lực và tôi
sẽ làm cho kỳ được,.
Nếu kết quả chứng tỏ
việc tôi làm phải th́ mọi lời
chỉ trích đối với tôi sẽ
lố bịch. C̣n nếu tôi đă
lầm, th́ thiên thần sẽ chứng
giám cho thiện ư của tôi và lịch
sử sẽ lên án tôi'.
|
|
|
|
|
|