|
Kích
thích thị giác và óc tưởng tượng
của người
Cách đây mấy năm, tờ báo
Philadelphie Evening Bulletin bị kẻ xấu
miệng gièm pha, loan truyền rằng bài
vở ít, quảng cáo nhiều quá, không
bổ ích ǵ cho độc giả hết...
Phải hành động gấp để ngưng
bặt cuộc tuyên truyền phá hoại
đó! Nhưng làm cách nào bây giờ?
Ṭa soạn cắt trong một số thường
tất cả những bài, không phải
quảng cáo, đă đăng trong một ngày,
xếp đặt lại rồi in thành
một cuốn sách, nhan đề là 'Một
ngày'. Sách dày 307 trang, bằng một cuốn
sách đáng giá hai đồng. Vậy mà
tất cả bài vở đó - tin tức, xă
luận, tiểu thuyết - tờ báo đă
đăng trong một ngày, và bán không
phải là hai đồng mà hai xu.
Sự cải cách đó rất được
hoan nghênh: người ta thấy tờ báo có
vô số bài hay.
Một cuốn sách đó đập vào óc người
ta một cách mạnh mẽ, vui vẻ và rơ ràng
hơn là cả đống lư luận và con
số.
Vô số xí nghiệp hành động như
tờ báo đó. Những người bán máy
lạnh hiệu Electrolux, muốn cho người
mua thấy rơ và tin rằng máy đó chạy
không có một tiếng động, đánh cây
quẹt cho người mua nghe thấy
tiếng x̣e lửa trong khi máy lạnh đang
chạy...
Một hàng bán nón được khách hàng
hoan nghênh đặc biệt, chỉ v́ phân phát
những hóa mục có chữ kư của
một nữ tài tử danh tiếng.
Một nhà quảng cáo chuyên môn đă
nghiệm rằng, một tủ kính bày hàng
đương chuyển động mà
ngừng lại th́ số người đứng
coi rút mất tám chục phần trăm... Con
chuột Mickey mà những ai ưa hoạt
họa đều biết, đă nổi danh
đến nỗi có tên trong tự điển
mới, và một hăng chế tạo đồ
chơi, khéo lợi dụng tên nó mà khỏi
bị vỡ nợ... Một công ty hàng không
chỉ bày trong tủ kính một h́nh vẽ
lại đúng những bộ phận điều
khiển máy bay kiểu Douglas mà làm cho không
ngớt người tụ lại coi... Trong máy
truyền thanh, một nhà buôn kể một
cuộc thi vơ tưởng tượng,
giữa một món hàng của nhà đó
với một món hàng của nhà khác, mà làm
cho những nhà đại lư phấn khởi
lên được... Chỉ nhờ ánh sáng
của một ngọn đèn phóng xạ sáng
rực cả một cửa hàng bán kẹo, mà
số kẹo bán được tăng lên
gấp đôi... Hăng xe Chrysler cho những con
voi leo lên mui xe để thiên hạ thấy
rằng mui xe chắc chắn...
Hai người giỏi nhất trong nghề bán
hàng chung nhau viết một cuốn sách
về nghệ thuật dụ khách mua hàng.
Họ cho quay một cuộn phim đem
chiếu trong hàng trăm nhà buôn lớn:
Những người bán hàng coi phim và
hiểu ngay những điều nên làm và không
nên làm trong nghề của họ.
Chứng tỏ, phô bày một chân lư chưa
đủ. Phải làm cho sự thực linh
động, có thú vị, và kích thích người
ta nữa mới được. Chiếu bóng
có mục đích đó, truyền thanh cũng
có mục đích đó. Mà bạn cũng
phải làm như vậy mới chiếm
được sự chú ư của mọi người.
Những người bán hàng biết rơ điều
đó và ta phải bắt chước
họ. Một nhà chế thuốc giết
chuột, phân phát cho những người mua
buôn, một dụng cụ để bày hàng,
trong đó có hai con chuột sống. Trong
tuần lễ bày hai con chuột đó ra,
số hàng bán được tăng lên năm
lần.
Một hăng lớn nọ, chế dầu thơm
phái ông James B.Boynton điều tra về t́nh
trạng của các mỹ phẩm (như
phấn, son, dầu thơm, kem) trên thị trường
v́ có người báo trước chắc
chắn sẽ có những nhà cạnh tranh phá
giá các món đó.
Nhà kinh doanh đó không bằng ḷng cách ông
Boynton điều tra. Ông này kể lại: 'Ông
ấy chỉ trích những phương pháp tôi
đă dùng. Tôi bênh vực những phương
pháp đó. Chúng tôi tranh biện. Sau cùng ông
ta phải nhận rằng tôi có lư, nhưng lúc
đó tôi phải ra về, không kịp cho ông
ta biết kết quả cuộc điều
tra của tôi.
Lần sau lại, tôi không mất công
đưa con số và dẫn chứng làm chi.
Tôi quyết định kích thích óc tưởng
tượng của ông.
Vô pḥng giấy của ông, tôi thấy ông
đương bận kêu điện
thoại. Trong khi ông nói, tôi trút vali của tôi
lên trên mặt bàn: 32 lọ kem thoa mặt,
đều của những hàng cạnh tranh mà
ông biết.
Trên mỗi lọ, tôi đă dán một
miếng giấy tóm tắt, một cách linh
động và rơ ràng, kết quả của
cuộc điều tra của tôi về
thứ kem đó.
Kết quả ra sao? Tức th́ hết tranh
biện. Ông ta cầm một lọ rồi
tới lọ khác, đọc miếng
giấy; hỏi tôi vài câu rồi chúng tôi tṛ
chuyện thân mật. Ông bằng ḷng lắm.
Đáng lẽ cho tôi nói có 10 phút như
lần trước thôi, th́ ông giữ tôi
lại tới một giờ mà chúng tôi nói
vẫn chưa hết chuyện.
Cũng là những tài liệu lần trước,
nhưng lần này tôi biết kích thích
thị giác và óc tưởng tượng
của ông, mà kết quả khác xa như
vậy đó!
Vậy, muốn cho người ta nghe theo
bạn, bạn phải làm đúng quy tắc
thứ mười một:
'Kích thích thị giác và óc tưởng tượng
của họ' |
Thách
đố họ, khêu gợi tức khí
của họ
|
Khi
mọi cách đều vô hiệu
Khi mọi cách đều vô hiệu bạn hăy
thử cách này xem sao
Charlesschwab, người tin cẩn của Andrew
Carnegie, ông vua Thép, có một người
đốc công để cho thợ làm không
hết số công việc đă định.
Ông Schwab hỏi người đó:
- Không hiểu tại sao một người có
tài như thầy mà không làm cho nhân viên
của ḿnh có một năng lực sản
xuất khá hơn được?
Người kia đáp:
- Tôi cũng không hiểu tại sao nữa. Tôi
đă dùng đủ mọi chước:
hết khuyến khích, rồi kích thích,
rồi rầy mắng, chửi rủa,
dọa đuổi... vô hiệu.
Câu chuyện đó xảy ra hồi chiều,
trước khi kíp làm đêm tới xưởng.
Ông Schwab nói:
- Thầy đưa tôi một cục
phấn. Ngày hôm nay đổ khuôn được
mấy lần?
- Sáu lần.
Chẳng nói, chẳng rằng, ông Schwab
viết số 6 lên trên đất rồi
đi.
Khi kíp làm đêm tới, thấy con số,
họ hỏi nghĩa ǵ vậy. Những người
thợ khác đáp: 'Ông chủ tới,
hỏi chúng tôi, hôm nay đổ vô khuôn
được mấy lần; chúng tôi đáp
6 lần và ông viết số đó lên đất'.
Sáng hôm sau, ông Schwab trở lại. Con số
6 hôm trước đă có ai bôi đi,
viết con số 7 thay vào.
Khi bọn thợ làm ngày tới, thấy con
số 7. 'A! Tụi làm đêm tự cho
giỏi hơn tụi ḿnh sao! Rồi coi!'.
Họ hăng hái làm việc và hết ngày,
họ để lại sau họ một con
số '10' kếch xù và ngạo nghễ. Và
cứ mỗi ngày mỗi tiến như
vậy...
Chẳng bao lâu xưởng đó, trước
kia sản xuất thấp nhất, bây giờ
đứng đầu trong nhà máy.
Lời kết luận? Đây, chính lời
của ông Charles Schwab nói:
'Muốn có kết quả, bạn phải
khuyến khích ḷng ganh đua, không phải ḷng
ganh đua ti tiện để kiếm
tiền, mà một ḷng ganh đua cao thượng
hơn, ḷng muốn mỗi ngày mỗi
tiến, chẳng những thắng người
mà thắng cả chính ḿnh nữa'.
Những sự thách đố như vậy
bao giờ cũng kích thích được
một cách chắc chắn những người
có tâm huyết.
Không có một cuộc thách đố như
vậy. Theodore Roosevelt không khi nào làm Tổng
thống Huê Kỳ được.
Mới đại thắng được quân
Y Pha Nho ở đảo Cu ba về, 'kỵ sĩ
vô úy' đă được bầu ngay làm
Thống đốc Nữu Ước.
Những kẻ thù của ông kiếm
chuyện rằng ông chỉ là một kẻ
ngụ cư và như vậy không đủ
điều kiện được bầu làm
thống đốc. Ông sợ hăi, muốn rút
đơn ứng cử ra. Lúc đó, Thomas
Collier Platt thách ông bằng một giọng
sang sảng giữa hội nghị: 'Vị anh
hùng ở núi San Juan mà nhút nhát như vậy
sao?'.
Roosevelt tức khí, chịu tranh đấu...
Về sau ra sao trong sử đă có chép. Không
những lời thách đố đă thay
đổi cả đời ông mà c̣n có
ảnh hưởng lớn tới tương
lai của quốc gia nữa.
Al Smith cũng như Charles Schwab, như Platt,
biết rơ năng lực vô biên của
sự khêu gợi tức khí.
Hồi ông c̣n làm Thống đốc Nữu
Ước, nhà khám Sing Sing thiếu người
giám đốc. Trong công việc đó, đă
có nhiều sự lạm dụng, nhiều
sự đồi bại... Phải đặt
vào chỗ đó một người cương
quyết, gang thép mới được.
Nhưng kiếm ai đây?... Al Smith cho gọi
Lewis E. Lawes coi khám New Hampton lại. Khi Lawes
tới, ông hỏi bằng một giọng vui
vẻ: 'Sao? Tôi để ông giám đốc
khám Sing Sing, ông nghĩ sao? Phải có một
người giỏi mới được'.
Lawes sững sờ, không biết đáp ra sao.
Ông biết rơ những nguy hiểm tại khám
Sing Sing và chức đó không vững vàng ǵ;
muốn yên thân phải biết theo chiều
gió của chính trị.
Các ông giám đốc khám Sing Sing không
giữ chức lâu bao giờ. Có ông ở
vỏn vẹn có ba tuần. Ông Lawes chỉ
muốn một nơi nào chắc chắn. Có
nên thử liều hay không? Ông Smith thấy do
dự như vậy, ngả lưng trên
ghế, mỉm cười nói: 'Này ông
bạn, tôi biết là ông sợ. Khám đó
khó lắm. Chỉ có một người
đại tài mới giữ vững
được địa vị đó'.
Ông Smith đă dùng cách thách đố.
Tức th́ ông Lawes thấy ham thích, muốn làm
một việc mà chỉ một người
đại tài mới làm nổi.
Ông nhận lời và... giữ chức giám
đốc khám Sing Sing rất lâu. Hoạn
đồ của ông rực rỡ. Ông
viết một cuốn sách: 'Hai vạn năm
ở Sing Sing' được hoan nghênh vô cùng,
diễn thuyết nhiều lần trước
máy truyền thanh về đời sống
trong các khám. Phương pháp thuần hóa
tội nhân của ông đă có những
kết quả dị thường.
Harvey Firestone, nhà sáng nghiệp một kiểu
vỏ xe hơi, nói: 'Tôi đă nghiệm
thấy rằng tiền bạc không đủ
ràng buộc người có tâm huyết.
Họ đam mê sự mạo hiểm, sự
tranh đấu hơn. Những kẻ ưa thành
công, đều ưa những cơ hội làm
rỡ ràng giá trị của họ, những
dịp để tiến tới và để
thắng. Tất cả những cuộc
cạnh tranh đều chỉ có mỗi
một nguyên động lực sau này: ư
muốn vượt kẻ khác và tỏ giá
trị của ḿnh ra'.
Vậy muốn dẫn dụ những người
có tâm huyết, hạng người có chân giá
trị, bạn hăy:
'Thách đố họ, khêu gợi tức khí
của họ'.
Đó là quy tắc thứ 12.
Mười hai cách làm cho người khác nghe
theo ḿnh
1. Chỉ có mỗi một cách thắng trong
một cuộc tranh biện, là tránh nó đi.
2. Trọng ư kiến của người.
Đừng bao giờ bảo họ rằng
họ lầm.
3. Nếu bạn lầm, th́ bạn vui vẻ
nhận ngay đi.
4. Nên ôn tồn ngọt ngào, không nên
xẵng.
5. Đặt những câu vấn làm sao cho
tự nhiên người ta phải đáp 'có'.
6. Để người ta nói cho thỏa thích
đi.
7. Để cho họ tin rằng, chính họ
phát khởi ra ư kiến mà bạn đă
dẫn khởi ra cho họ.
8. Thành thật gắng sức xét theo quan
điểm của người.
9. Ai cũng thèm khát được người
khác quư mến, hiểu biết và thương
hại ḿnh nữa. Vậy bạn tặng
họ những thứ đó đi.
10. Gợi tới t́nh cảm cao thượng
của người.
11. Kích thích thị giác và óc tưởng tượng.
12. Thách đố khêu gợi tức khí
những người có tâm huyết |
Chín
cách sửa tính người
|
Tặng
người đó vài lời khen thành
thật
Chín cách sửa tính người mà không làm
cho họ giận dữ, phật ư
Nếu bạn bắt buộc phải chỉ
trích, th́ xin bạn bắt đầu như
sau này:
Hồi Calvin Coolidge c̣n làm Tổng thống Huê
Kỳ, một người bạn tôi
được mời lại Bạch cung, vô
pḥng ông vừa đúng lúc ông nói với cô
thư kư của ông rằng: 'Chiếc áo cô
bận hôm nay thiệt đẹp... Cô có duyên
lắm...'.
Ông vốn ít nói. Chưa bao giờ người
ta nghe ông khen những người giúp
việc ông như vậy. Thiệt lạ lùng,
thiệt bất ngờ, tới nỗi cô thư
kư thẹn thùng đỏ mặt lên.
Ông Coolidge nói tiếp: 'Lời tôi khen đó,
cô đừng lấy làm tự phụ
lắm; tôi chỉ muốn làm vui ḷng cô thôi...
Từ nay tôi muốn khi đánh máy, cô để
ư tới những dấu chấm câu hơn chút
nữa'.
Phương pháp đó tuy kém kín đáo, nhưng
tâm lư thật sâu sắc. Sau khi được
nghe lời khen rồi, ta thấy những
lời trách không khó chịu lắm.
Người thợ hớt tóc, thoa xà bông
thiệt kỹ rồi mới cạo râu.
Phương pháp đó, ông Mc. Kinley dùng năm
1896; khi ông dự bị cuộc vận động
tuyển cử của ông để làm
Tổng thống. Một trong những người
cộng tác với ông, viết một bài
diễn văn mà người ấy tự cho
rằng hùng hồn bằng tất cả
những bài của Cicéron, Démosthène và Daniel
Webster hợp lại.
Vẻ tự đắc hiện trên mặt,
người đó đọc cho ông Mc. Kinley
nghe tác phẩm bất hủ của ḿnh.
Thiệt ra bài đó có giá trị, nhưng dùng
không đúng trường hợp, sẽ làm
cho người ta la ó, phản đối,
chế giễu, nhưng ông Mc. Kinley không
muốn phạm ḷng tự ái, cũng không
muốn làm cụt hứng người đó.
Nhưng dù sao cũng phải chê. Ông xử trí
khéo léo như vầy; ông khen lớn:
'Bài diễn văn của anh thiệt hay;
đáng khen lắm; không ai làm hơn
được. Trong nhiều trường
hợp, một bài như vậy cần
lắm. Nhưng trong trường hợp này,
nó có thiệt là thích hợp không? Mặc
dầu lời lẽ hữu lư và ôn tồn,
ta cũng nên đoán trước nó sẽ có
tiếng vang ǵ trong đảng chúng ta. Anh
về nhà đi, viết cho tôi bài khác
phỏng theo những ư kiến đây này,
rồi anh gởi cho tôi một bản nhé'.
Người kia vâng lời, theo ư ông và có công
giúp ông nhiều nhất trong cuộc vận
động bầu cử đó.
Dưới đây là một bức thư mà
Tổng thống Lincoln viết ngày 26-4-1863,
trong giờ đen tối nhất của
cuộc Nam Bắc chiến tranh. Đă 18 tháng
rồi, những đại tướng
của Ngài cầm đầu quân đội
miền Bắc thua hết trận này tới
trận khác. Thiệt là một cuộc đâm
chém vô lư và vô ích. Cả ngàn lính đào ngũ.
Dân t́nh hoảng sợ. Chính đảng
Cộng ḥa cũng phản kháng, đ̣i Ngài
từ chức. Ngài nói: 'Chúng ta ở ngay
bờ một vực thẳm. Thượng
đế h́nh như cũng ghét bỏ chúng
ta và tôi không c̣n một mầm hy vọng nào
hết!'.
Đại tướng Hooker đă có
những lầm lỗi nặng và Tổng
thống muốn sửa trị người
hữu dơng vô mưu cầm vận mạng
của cả một dân tộc đó.
Vậy mà trước khi chỉ trích, Ngài
khen Hooker ra sao? Lầm lỗi của Đại
tướng rất nặng mà Ngài không nói
tới ngay bằng một cách tàn nhẫn. Ngài
chỉ rất ôn tồn nói: 'Ông đă làm vài
việc mà tôi không được hoàn toàn
vừa ư...'. Thiệt là nhă nhặn và
lịch thiệp!
Đây, bức thư đó đây:
'Tôi đă để ông cầm đầu
đạo binh Potomac. Khi quyết định
như vậy, tất nhiên tôi đă căn
cứ vào những lư lẽ vững vàng. Nhưng
tôi không phải cho ông hay rằng ông đă làm
vài điều mà tôi không được hoàn
toàn vừa ư.
Tôi tin rằng ông là một quân nhân can đảm
và có tài dụng binh. Tự nhiên, tôi
trọng những tài ba đức tính đó.
Tôi cũng tin rằng ông không vừa cầm
quân, vừa làm chính trị, mà như vậy
là phải. Ông có đức tự tin, đức
đó quư lắm, nếu không phải là
cần thiết.
Ông có xa vọng. Xa vọng mà giữ
được trong những giới hạn
cho vừa phải th́ tốt nhiều hơn là
hại. Nhưng tôi biết rằng xa vọng
của ông đă đưa ông tới sự
dùng đủ mọi cách để cản
trở Đại tướng Burnside; như
vậy ông đă làm hại lớn cho nước
chúng ta và cho một người bạn
cầm quân đáng trọng và đáng khen
của ông.
Mới rồi ông có nói - tôi biết chắc
như vậy - rằng quân đội và chính
phủ đều cần có một người
độc tài cầm đầu.
Không phải v́ ông có ư tưởng đó mà
tôi tin dùng ông. Chính ra, dù ông có ư tưởng
đó, tôi cũng vẫn có gan dùng ông. Ông cũng
hiểu vậy chứ?
Chỉ những đại tướng
thắng trận mới có thể đ̣i làm
nhà độc tài được. Bây giờ
tôi hăy xin ông thắng trận trước
đă, c̣n vấn đề độc tài, chúng
ta sẽ bàn sau.
Chính phủ sẽ hết sức bênh vực
ông, nghĩa là không hơn cũng không kém các
đại tướng khác. Nhưng tôi
ngại rằng cái phong trào chỉ trích và
nghi ngờ các vị chỉ huy mà ông rải
rác trong quân đội sẽ trở lại
hại ông. Tôi sẽ hết sức giúp ông
để triệt cái thói đó đi.
Quân đội mà có tinh thần đó th́ ông
- mà cả Nă Phá Luân tái sinh nữa - cũng
không thể bắt họ gắng sức
được. Ông nên coi chừng hữu dơng
vô mưu. Nhưng ông phải cương
quyết; luôn luôn dụng tâm mănh tiến và
đem đại thắng về cho chúng tôi'.
Tôi hiểu bạn lắm. Bạn không
phải là một Coolidge, một Mc. Kinley hay
một Lincoln. Điều bạn muốn
biết là làm sao áp dụng phương pháp
đó vào công việc làm ăn hàng ngày
được. Đây, xin bạn nghe
chuyện ông Gaw, kiến trúc sư giúp
việc cho một hăng thầu khoán lớn
về nhà cửa.
Ông Gaw là một người thường như
bạn và tôi.
Hăng của ông cậy ông cất ở
Philadelphie một ngôi nhà lớn, hẹn
phải cho xong một thời hạn nhất
định. Mọi việc tiến hành
thuận tiện. Nhà cất gần xong
rồi th́ th́nh ĺnh nhà chế tạo
những đồ đồng để trang
hoàng phía trước nhà, cho hay rằng không
giao những đồ đồng đó y
hẹn được. Sao? Cả một ṭa
nhà v́ vậy mà phải trễ sao? Phải
bồi thường lớn và sai hẹn,
sẽ lỗ vốn lớn, bao nhiêu sự khó
khăn! Mà chỉ v́ mỗi một người!
Gọi điện thoại... Tranh biện...
trách mắng... Đều vô hiệu. Hăng bèn
sai ông Gaw lại Nữu Ước vô tận
hang để làm xiêu ḷng con cọp đó.
Khi ông vô pḥng giấy nhà chế tạo đó,
ông nói:
'Ông có biết rằng ở Brooklyn này, không
có ai trùng tên với ông không?'.
Người kia ngạc nhiên: 'Không, tôi không
hay đấy'. Ông Gaw tiếp: 'Tôi cũng
mới hay đây, khi kiếm địa
chỉ của ông trong Điện thoại niên
giám'.
Nhà chế tạo lấy cuốn niên giám và
t́m kiếm kỹ lưỡng, rồi nói
với một giọng tự đắc rơ
rệt:
'Quả thật tên tôi hơi lạ. Họ tôi
gốc ở Ḥa Lan qua cư trú ở đây
gần được hai trăm năm
rồi'.
Trong vài phút, ông ta vui vẻ kể về cha
mẹ và tổ tiên ông. Khi ông ta nói xong, ông
Gaw khen nhà máy của ông ta và kết luận:
- Nhà máy đó vào hạng sạch sẽ
nhất, khéo tổ chức nhất trong
số các nhà máy mà tôi đă được
thấy.
Nhà kỹ nghệ nói:
- Tôi đă suốt đời dựng nó lên,
sửa sang nó và tôi lấy làm tự đắc
v́ nó lắm... Ông muốn đi thăm các xưởng
của tôi không?
Ông Gaw, từ đầu đến cuối
trầm trồ khen máy móc, phương pháp làm
việc và giảng giải tại sao ông cho là
hơn những nơi khác. Ông nhận
thấy vài bộ phận đặc biệt:
nhà kỹ nghệ khoe tự ông ta sáng tạo
ra và tả tỉ mỉ về những động
tác của nó ra sao.
Sau cùng, ông ta cố mời ông Gaw dùng bữa
trưa với ông ta. Bạn nhận kỹ,
từ đâu tới đó, chưa có nửa
lời về mục đích của cuộc
thăm viếng.
Sau bữa, nhà kỹ nghệ nói: 'Thôi nói
về việc ông đi. Tất nhiên tôi
hiểu tại sao ông lại đây. Tôi không
ngờ rằng ông nói chuyện vui vẻ như
vậy. Ông có thể trở về Philadelphie.
Tôi hứa với ông rằng những đồ
đồng của ông sẽ làm và giao đúng
hẹn, dù tôi phải ngưng hết thảy
những công việc khác lại'.
Ông Gaw không đ̣i mà được. Nhà
kỹ nghệ giữ lời hứa và ṭa nhà
cất xong đúng hẹn.
Nếu ông Gaw dùng những phương pháp
kịch liệt mà người ta thường
dùng trong những trường hợp đó
th́ có trôi chảy được như
vậy không?
Vậy, muốn cải thiện người mà
không làm cho người đó phật ư,
giận dữ, bạn hăy:
'Bắt đầu câu chuyện bằng cách
tặng người đó vài lời khen thành
thật'.
Đó là quy tắc thứ nhất.
Chỉ trích cách
nào mà khỏi gây thù oán?
Charles Schwab, cánh tay mặt của Andrew Carnegie,
ông vua Thép, nhờ thiệp thế mà khéo
ngoại giao mà được hết thảy
mọi người quư mến. Một
buổi trưa, có việc đi qua các xưởng
của ông, ông bắt gặp một nhóm
thợ đương hút thuốc, mà ngay trên
đầu họ có tấm bảng đề
'Cấm hút thuốc'. Ông Schwab xử trí ra
sao? Ông có chỉ tấm bảng mà la lên: 'Các
anh không biết đọc ra sao?'. Không! Ai kia
th́ xử sự như vậy, chứ ông
Schwab th́ không bao giờ. Ông lại gần
họ, đưa cho mỗi người
một điếu x́ gà rồi nói: 'Xin anh em
vui ḷng ra ngoài kia hút'.
Nhóm thợ hiểu rằng ông biết họ
đă phạm luật của xưởng nên
nhắc khéo họ. Họ càng quư mến ông,
v́ chẳng những ông không đả động
tới điều lệ, c̣n mời họ hút
thuốc, làm cho họ cảm động mà
thấy ông nể nang họ. Ai mà không
mến một người như vậy?
John Wanamaker, là chủ nhiệm cửa hàng
lớn trong tỉnh Philadelphie, cũng dùng phương
pháp đó. Ông có thói quen mỗi ngày đi
dạo qua hết các gian hàng của ông.
Một lần ông thấy một bà khách
đứng đợi tại một gian hàng
mà chẳng ai tiếp bà hết. Các cô bán hàng
c̣n mải cười giỡn, chuyện tṛ
trong một xó. Ông Wanamaker không nói chi hết,
nhẹ nhàng tiến lại quầy hàng, đích
thân tiếp bà khách hàng, rồi đem giao món
hàng bà đă lựa cho một cô làm công
để gói lại... đoạn tiếp
tục đi.
Một vị mục sư nổi danh ở Huê
Kỳ, ông Lyman Abbott, khi nhận chức,
phải đăng đàn thuyết pháp
tỏ ư ai điếu và ca tụng công đức
vị mục sư tiền nhiệm mà
hồi sanh tiền vốn có tài hùng biện.
V́ quyết tâm tỏ tài, ông ra công gọt giũa
bài thuyết pháp của ông c̣n tỉ mỉ
hơn văn sĩ Flaubert nữa. Khi viết
xong, ông đọc cho bà mục sư nghe. Bài
đó chẳng hay ho ǵ, cũng như phần
nhiều những bài diễn văn soạn
sẵn.
Bà Abbott, nếu vụng xử, ắt đă nói:
'Này, ḿnh, bài đó tệ quá... không
được đâu!... Thiên hạ sẽ
ngủ gục mất. Nó tràng giang đại
hải như một bộ bách khoa tự
điển vậy. Ḿnh thuyết giáo đă lâu
rồi mà sao c̣n dở vậy? Th́ ḿnh cứ
nói tự nhiên, dùng ngôn ngữ của
mọi người có hơn không? Nếu ḿnh
đọc bài đó ra, th́ sẽ tai hại
cho ḿnh lắm đa!...'.
Bà mục sư có thể nói như vậy
được. Nhưng rồi sẽ xảy
ra sự chi, chắc bạn đă đoán
được. Chính bà cũng biết
vậy nữa. Cho nên bà chỉ nói rằng bài
diễn văn đó, nếu cho đăng vô
Tạp chí Bắc Mỹ th́ tuyệt. Nghĩa
là bà kín đáo vừa khen, vừa chê bai
đó không thích hợp với công việc
thuyết giáo. Ông Lyman Abbott hiểu ư, xé bài
văn đă tốn nhiều công đó và
chẳng cần soạn trước, ông
đăng đàn thuyết giáo.
Vậy, muốn thay đổi hành động
của một người mà không làm
phật ư họ và cũng không gây thù oán:
Bạn hăy nói ư cho họ hiểu lỗi
của họ.
Đó là quy tắc thứ hai
Hăy
tự cáo lỗi trước đă
Cách đây vài năm, cháu gái tôi, Joséphine
Carnegie, rời quê hương tới làm thư
kư cho tôi tại Nữu Ước. Hồi
đó cháu 19 tuổi, mới ở trường
ra, nghĩa là không có một chút xíu kinh
nghiệm nào về thương măi. Hiện
nay cháu đă trở nên một trong những
thư kư hoàn toàn nhất mà tôi được
biết. Nhưng hồi mới ư?...
Hồi mới th́ cháu... c̣n cần phải
học rất nhiều.
Một hôm, tôi đă định rầy cháu,
nhưng suy nghĩ lại, tự nhủ: 'Khoan
đă, Dale Carnegie à... Tuổi anh gấp đôi
tuổi nó. Anh kinh nghiệm cả vạn
lần hơn nó. Anh bắt nó có quan điểm
của anh, có trí xét đoán của anh sao
được, tuy rằng anh c̣n tầm thường
lắm đấy! Nhớ lại chút coi!
Hồi anh 19 tuổi, anh đă làm những chi
nhỉ? Anh có nhớ đă làm việc đó...
rồi việc đó nữa không...?'.
Sau khi cân nhắc kỹ, một cách chân thành
và vô tư, tôi phải kết luận
rằng cháu Joséphine c̣n giỏi hơn tôi khi
tôi bằng tuổi cháu, mà tôi phải thú
nhận rằng như vậy không phải là
một lời khen cháu đâu.
Nhưng lần sau, mỗi khi tôi bắt
buộc phải rầy cháu, tôi bắt đầu
như vầy: 'Cháu đă lầm lỗi, nhưng
có Trời Phật biết cho, hồi xưa
chú c̣n lầm lỗi nặng hơn cháu
nhiều. Phải lớn tuổi mới
biết xét đoán được. Hồi chú
bằng tuổi cháu, chú vô lư hơn cháu
nhiều. Chú đă làm nhiều cái bậy
đến nỗi chú không dám chỉ trích
một ai hết.
Nhưng, cháu thử nghĩ giá làm như
vầy, có phải khôn hơn không?...'
Nếu ta khiêm tốn nhận trước
rằng ta cũng chẳng hoàn toàn ǵ rồi
mới trách kẻ khác, th́ kẻ đó không
thấy khó chịu lắm.
Vị Vương hầu khôn khéo Von Bulow
đă hiểu phương pháp đó là quan
trọng từ năm 1909. Lúc đó ông làm
Tể tướng dưới triều Hoàng
đế Guillaume II, vị Hoàng đế
cuối cùng của nước Đức,
ngạo mạn, kiêu căng thường
tự khoe rằng lục quân và hải quân
của ḿnh đủ sức 'đánh tan lũ
mèo rừng'.
Một chuyện lạ lùng xảy ra, Hoàng
đế tuyên bố những lời không
thể tưởng tượng được,
làm rung động cả châu Âu và vang lên
khắp bốn phương trời. Những
lời điên rồ hợm hĩnh và
vụng dại đó, ông tuyên bố giữa
công chúng, trong khi ông qua thăm Anh hoàng; ông
lại cho phép tờ báo Anh Daily Telegraph công
bố lên mặt báo nữa.
Ông tuyên bố rằng ông là người
Đức độc nhất có cảm t́nh
với người Anh, rằng ông sẽ tăng
cường hải quân của ông để
chống với Nhật Bản, rằng
chỉ nhờ sự can thiệp của ông mà
Anh quốc mới khỏi bị đè
bẹp dưới sự đô hộ của
Nga, Pháp, rằng Anh thắng được quân
Boers ở Nam Phi là nhờ trận đồ
của ông, và c̣n nhiều hơn nữa...
Từ 100 năm, chưa thấy ông vua nào
giữa thời b́nh mà tuyên bố những
lời lạ lùng như vậy. Cả châu Âu
giận dữ ồn ào, như bầy ong
vẽ vỡ tổ. Nước Anh khích
nộ sôi nổi. Các nhà chính trị Đức
hoảng sợ. Giữa sự kinh ngạc
của mọi người, Hoàng đế
đâm hoảng, cậy Vương hầu Von
Bulow nhận giùm hết trách nhiệm thay vua.
Ông muốn Tể tướng bố cáo
rằng chính Tể tướng đă khuyên
ông tuyên bố những lời lạ lùng
đó.
Von Bulow căi:
- Tâu Bệ hạ, thần tưởng không
một người nào ở Anh cũng như
ở Đức, lại có thể tin rằng
thần đă khuyên Bệ hạ như
vậy được.
Chưa dứt lời th́ Von Bulow đă tự
biết ḿnh lỡ lời. Hoàng đế
đùng đùng cơn giận:
'Th́ ngươi nói phắt rằng ngươi
coi ta ngu như lừa, đă làm những
lỗi mà ngươi, ngươi không khi nào
làm!'.
Von Bulow biết rằng đáng lẽ phải
khen trước đă rồi mới chê, nhưng
trễ quá rồi, chỉ c̣n mỗi một cách
vớt vát là: đă lỡ chê trước th́
phải khen sau vậy; và năng lực
của lời khen thiệt mạnh, kết
quả dị thường:
Tể tướng kính cẩn trả lời:
'Thần đâu dám có ư đó. Bệ hạ
hơn thần về nhiều phương
diện. Không những hơn về vấn
đề binh bị và hải quân - điều
đó đă đành - mà hơn cả về
khoa vật lư học nữa. Thần đă
từng khâm phục nghe Bệ hạ giảng
về phong vũ biểu, về vô tuyến
điện tín hoặc về quang tuyến X
nữa. Thần tự thấy xấu hổ,
v́ chẳng biết chút chi về hóa học và
vật lư học, không thể phân tích
được một vấn đề
giản dị nhất của khoa học. Nhưng
bù vào đó, thần cũng biết chút ít
về sử kư và có lẽ có vài đức
tính khả dĩ có thể dùng được
trong chánh trị và ngoại giao'.
Hoàng đế tươi như hoa. Von Bulow
tự nhún để khen ngợi, biểu dương
Người, và Hoàng đế đại xá
cho hết, vui vẻ truyền: 'Trẫm và ngươi
không nên rời nhau. Trẫm đă chẳng nói
rằng Trẫm và ngươi bổ sung
lẫn cho nhau sao?''.
Rồi Hoàng đế siết chặt tay Von
Bulow, không phải một mà nhiều lần,
Guillaume II đă xúc động tới
nỗi, trong ngày đó, có lần giơ hai
quả đấm lên nói:
'Nếu kẻ nào đó nói bất kỳ
điều ǵ xúc phạm tới Vương
hầu Von Bulow, th́ Trẫm sẽ thoi vào
mặt nó!'.
Von Bulow đă biết chữa lỗi lại
liền. Nhưng con cáo già đó cũng đă
lầm lỡ; đáng lẽ là phải
bắt đầu tự cáo những
khuyết điểm của ḿnh và ca tụng
Guillaume II đă, th́ ông đă lỡ tỏ trước
rằng ông chê vua vụng dại không
biết giữ ǵn lời nói.
Chỉ có vài lời tự nhún và khen
ngợi mà Von Bulow đă làm cho một ông vua
kiêu căng đương bị xúc phạm
biến thành một bạn thân, tận tâm
với ḿnh. Phương pháp đó đối
với một vị Hoàng đế c̣n có
hiệu quả như vậy, th́ bạn
thử tưởng tượng đối
với chúng ḿnh đây, c̣n hiệu quả
tới đâu. Sự nhũn nhặn và
biết khâm phục, khéo dùng cho vừa
phải và đúng trường hợp, giúp
chúng ta làm được những việc phi
thường trong đời chúng ta.
Vậy muốn thay đổi thái độ
của người khác mà không làm cho họ
phật ư, giận dữ, bạn phải theo
quy tắc thứ ba sau này:
Trước khi chỉ trích ai, bạn hăy
tự thú nhận những khuyết điểm
của bạn đă'.
Đừng
ra lệnh
Một người, trong ba năm làm việc
chung một pḥng với nhà kinh tế học
trứ danh Owen D. Young, người đă
lập ra kế hoạch Young, nói rằng không
hề nghe thấy ông ra lệnh cho ai hết.
Ông Young chỉ bảo, đề nghị,
tuyệt nhiên không truyền lệnh. Chẳng
hạn không khi nào ông nói: 'Làm cái này', 'Làm cái
kia...', 'Đừng làm cái này hay cái kia'. Không,
ông nói: 'Thầy có thể nghiên cứu
việc này được...', 'Thầy cho
rằng như vậy nên không?'. Sau khi đọc
cho người ta đánh máy một bức thư,
ông thường hỏi các người giúp
việc ông: 'Như vậy được không?
Khi người giúp việc tŕnh ông bản
thảo một bức thư để xin ông
sửa cho, ông chỉ bảo: 'Có lẽ nên
sửa lại câu này như vầy...'
Luôn luôn ông để cho những người
giúp việc ông có nhiều sáng kiến, không
bao giờ ông tỏ vẻ bắt buộc
họ làm việc này việc nọ theo ư ông,
mà ông để họ hành động theo ư
họ. Nếu họ lầm lẫn th́ là
một cơ hội cho họ tự cải.
Một cách đối đăi như vậy làm
cho người ta vui ḷng tự sửa ḿnh.
Lại không làm thương tổn ḷng
tự ái của người ta, cho người
ta nhận thấy sự quan trọng của
người ta và như vậy người ta
sẽ vui ḷng cộng tác với ḿnh, không
phản đối ḿnh.
Vậy quy tắc thứ 4 để sửa
lỗi người mà không làm cho họ
phật ư, giận dữ là:
'Đừng ra lệnh. Dùng cách đặt câu
hỏi để khuyên bảo người
ta'.
Giữ
thể diện cho người
Mấy năm trước, Công ty Điện
khí ở Nữu Ước gặp một
việc khó giải quyết: làm sao cho Charles
Steinmetz chịu bỏ chức chủ sở
đi được. Steinmetz là một thiên tài
bậc nhất về điện học, nhưng
hoàn toàn bất tài trong công việc chỉ
huy một pḥng kế toán. Công ty sợ làm
phật ư ông v́ ông rất cần cho công ty mà
lại dễ hờn vô cùng. Các ông giám đốc
công ty liền thăng ông lên chức: 'Kỹ
sư cố vấn của Công ty Điện
khí'; chỉ có cái chức là mới, c̣n công
việc vẫn là công việc cũ. Rồi
họ lựa một người khác cho
chỉ huy pḥng kế toán.
Steinmetz sung sướng.
Mà các vị giám đốc cũng vậy!
Khéo xử một cách ngọt ngào, biết
giữ thể diện cho Steinmetz, họ đă
êm ấm đạt được mục
đích, không thiệt hại chút ǵ hết.
'Giữ thể diện!'. Điều đó
quan trọng lắm. Vấn đề sinh
tử! Vậy mà trong chúng ta, có mấy người
biết giữ thể diện cho người
khác?
Chúng ta chà đạp cảm t́nh của người,
bắt họ theo ư ta, buộc lỗi họ,
dọa dẫm họ; chúng ta rầy la con cái
hay người giúp việc trước
mặt bất cứ ai, không hề nghĩ
rằng tự ái của họ đang bị
ta chà đạp. Mà có khó khăn ǵ đâu,
chỉ một chút suy nghĩ, vài lời
ngọt ngào, một ḷng thành thật gắng
sức quên ḿnh và hiểu người là
đủ làm dịu hẳn vết thương.
Lần sau, chúng ta có bắt buộc phải làm
công việc đáng ghét là đuổi
một người ở hay một người
làm công th́ ta nên nhớ điều đó.
Đây là nguyên văn bức thư một
kế toán viên gởi cho tôi:
'Đuổi người làm công, không
phải là một cái thú. Mà bị đuổi
lại càng không thú chút nào hết. Công
việc của hăng chúng tôi có từng mùa.
Cho nên, bắt đầu tháng ba là chúng tôi
phải sa thải một số nhân viên đi.
Măi tới gần đây, chúng tôi vẫn báo
tin buồn đó cho những người
bị hy sinh bằng cách này:
Ông Smith, mời ông ngồi xuống. Tới mùa
hết việc rồi, chúng tôi không có đủ
công việc để cậy ông giúp... Chúng
ta đă cho ông hay trước rằng công
việc ông làm chỉ tạm thời thôi...'
Nhưng người bị mất việc dù
sao cũng thất vọng lắm. Họ có
cảm tưởng bị bỏ rơi và không
thèm giữ một mảy may cảm t́nh
với một hăng đă đối đăi
với họ khiếm nhă như vậy.
Sau này, tôi áp dụng một cách lịch
sự hơn, đối đăi với họ
có lễ độ hơn. Tôi cho mời
từng người vô pḥng tôi sau khi suy nghĩ
kỹ về công việc họ đă giúp tôi
trong cả mùa đông, tôi nói với họ
như vầy:
'Ông Smith, ông đă đắc lực giúp chúng
tôi (nếu quả có vậy). Khi chúng tôi
cậy ông đi Nữu Ước, nhiệm
vụ không phải dễ mà ông đă thành công
được một cách đáng khen; hăng
lấy làm vinh dự lắm. Ông có tài, có
nhiều tương lai, dù ông làm việc
ở đâu cũng vậy. Chúng tôi tin
cậy ông và hễ có việc để
nhờ ông giúp được, chúng tôi
sẽ nghĩ tới ông. Chúng tôi không quên ông...
Kết quả tốt hơn vô cùng. Họ không
oán hờn ǵ hết, họ không cho rằng
họ bị chúng tôi phản. Họ hiểu
rằng nếu có công việc th́ chúng tôi
tất giữ họ lại. Và khi chúng tôi
cần tới họ, họ vội vàng
lại liền, có vẻ cảm ơn chúng tôi
lắm'.
Ông Dwight Morrow, cựu sứ thần Mexique,
đă quá cố, nhạc phụ ông Lindbergh, có
một tài dị thường là làm cho hai
kẻ thù sắp đà đấm nhau, ḥa
giải với nhau liền. Ông làm cách nào? Ông
t́m trong quan điểm của hai người,
tất cả những chỗ mà ông cho là công
bằng, ông đem phô bày ra và ca tụng, không
cho ai là trái hết, dù cuộc tranh biện
kết cục ra sao cũng vậy.
Đó là quy tắc của mọi sự
trọng tài: giữ thể diện cho người
ta.
Năm 1922, sau hai thế kỷ oán thù, dân
Thổ Nhĩ Kỳ quyết xua đuổi
những kiều dân Hy Lạp ra khỏi nước,
Mustapha Kémal hô hào quân lính'. Hỡi sĩ
tốt, mục đích của chúng ta là Địa
Trung Hải'. Chiến tranh đó giữa
Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp, là một
trong những chiến tranh cận đại
đổ máu nhiều nhất. Quân Thổ
thắng và khi hai đại tướng Hy
Lạp Tricoupis và Dionis lại tổng hành dinh
của Kémal để đầu hàng, dân
Thổ trút lời nguyền rủa lên đầu
họ.
Nhưng Kémal không tỏ ra cho họ thấy
rằng ông là người thắng. Những
bực vĩ nhân không phí th́ giờ tự
đắc, khoe những thành công của ḿnh.
Ông bắt tay hai đại tướng đó
nói:
'Xin mời hai Ngài ngồi xuống đây,
chắc hai Ngài mệt lắm'.
Rồi sau khi nói chuyện với họ
về trận mạc, ông xoa vết thương
tự ái của họ: 'Tôi xin lấy tư cách
một quân nhân nói chuyện với hai Ngài cũng
là quân nhân. Tôi cho chiến tranh là một canh
bạc, và những người cao nhất cũng
có khi thua'.
Vậy, cả tới trong khi nỗi vui
mừng thắng trận kích thích ông, mà ông
cũng không quên quy tắc quan trọng
thứ 5 sau này:
'Giữ thể diện cho người'
Khích
lệ người ta cách nào?
Tôi đă được biết anh Pete Barlow.
Anh chuyên môn dạy chó và ngựa làm tṛ trong
những rạp xiếc. Tôi thích coi anh
dạy chó lắm. Khi một con chó hơi
tấn tới một chút, anh vuốt ve nó,
khen nó, thưởng nó thịt; nói tóm
lại, trọng thị sự thành công
của nó.
Phương pháp đó không mới mẻ ǵ.
Tất cả những người dạy súc
vật áp dụng nó đă nhiều thế
kỷ rồi.
Tôi tự hỏi đối với loài người
sao chúng ta không dùng cách hợp lư đó?
Tại sao ta không dùng thịt thay cho roi,
lời khen thay cho lời mắng? Chúng ta nên
theo anh Pete Barlow: muốn khuyến khích ai th́ dù
người đó tấn tới rất ít,
ta cũng nên khen. Như vậy chúng ta khích
lệ họ cho họ tiếp tục gắng
sức.
Lewis E. Lawes, giám đốc khám Sing Sing, công
nhận rằng những lời khuyến khích
có nhiều kết quả rất tốt,
cả với những tội nhân chai
nhất. Ông nói trong một bức thư:
'Tôi đă nhận thấy rằng muốn cho
tội nhân hợp tác với và trở
lại con đường lương
thiện th́ khen những sự gắng
sức của họ, có hiệu quả hơn
là rầy, phạt họ'.
Tới bây giờ tôi chưa từng bị
nhốt khám Sing Sing và không biết bọn
tội nhân nghĩ sao. Nhưng chỉ cần
ngó về quá khứ của tôi, cũng
thấy rằng đời tôi có một đôi
khi thay đổi do một lời khen hay
khuyến khích. Và bạn có như vậy không?...
Quá khứ đầy những thí dụ
chứng minh năng lực thần diệu
của lời khen.
Năm mươi năm trước, một
đứa nhỏ 10 tuổi làm việc trong
một xưởng ở Naples. Nó mơ
mộng muốn thành một danh ca. Chẳng
may, ông thầy đầu tiên dạy nó ca làm
cho nó thất vọng: 'Giọng mày ca như xé
tai người ta'. Nhưng má nó, một người
nhà quê nghèo an ủi nó, ôm nó vào ḷng,
bảo rằng bà tin chắc nó có tài và
đă thấy nó tiến tới rồi. Bà làm
việc cực khổ, nhịn ăn, nhịn
mặc, đi chân không, để dành
tiền cho con học âm nhạc... Những
lời khuyến khích của bà thay đổi
hẳn đời đứa nhỏ. Chắc
bạn đă được nghe người
ta nói tới nó: tên nó là Caruso.
Nhưng hoàn cảnh nó thiệt là trái ngược.
Học th́ sơ sài, cha bị giam thâu
(thiếu nợ mà bị giam) và chính nó nghèo
lắm, nhiều khi bị 'lửa cơ đốt
ruột'. Sau cùng, nó kiếm được
một việc làm là dán nhăn lên trên
những ve thuốc nhuộm trong một kho hàng
đầy những chuột cống. Tối,
nó ngủ trên một gác thượng ghê
tởm, sát mái nhà, cùng với bọn du côn
cặn bă của thành Luân Đôn. Nó không tin
ở giá trị của nó và sợ người
ta chế giễu tới nỗi phải đợi
trời tối như mực rồi mới dám
lén lút đem bản thảo bỏ vào thùng
thư. Hết bản này đến bản khác
bị từ chối. Sau cùng, một ngày tươi
sáng tới: một truyện nó viết
được người ta nhận
đăng. Đành rằng người ta không
trả nó một xu nhỏ nào hết, nhưng
nó không cần. Nhà xuất bản khen nó, là
đủ rồi! Có người nhận là nó
có tài rồi! Nó sung sướng tới
nỗi nó đi lang thang ngoài phố, hai hàng
lệ ṛng ṛng trên má.
Từ lúc đó, nó hy vọng, tự tin và tương
lai của nó thay đổi hẳn. Nhưng
nếu không có sự khuyến khích đó th́
có lẽ nó c̣n làm suốt đời trong
những nhà máy đầy chuột cống.
Người đó, cũng không xa lạ ǵ
với bạn. Chính là văn sĩ Anh Charles
Dickens.
Nửa thế kỷ sau, một thanh niên khác
ở Luân Đôn làm việc trong một
cửa hàng bán đồ nỉ. Dậy
từ 3 giờ sáng, quét tiệm và nai lưng
ra làm 14 giờ một ngày. Được 2 năm,
chịu không nổi, rồi một buổi sáng,
không điểm tâm, bỏ nhà ra đi,
cuốc bộ trên 20 cây số về thăm
bà mẹ làm quản gia cho một chủ
điền. Cậu than thở với mẹ,
khóc lóc van lơn, thề nhất định
tự tử, nếu c̣n phải bắt
buộc bước chân vào cửa hàng đó
nữa... Rồi cậu viết một
bức thư dài cho ông giáo cũ, thú
nhận rằng chịu không nổi đời
được nữa, chỉ muốn quyên
sinh thôi. Ông giáo hồi âm, an ủi cậu, nói
cậu rất thông minh, làm việc lớn
được, đời sẽ tươi sáng
hơn và cuối thư, cho cậu một chân
giáo viên.
Những lời khen an ủi đó, đủ
thay đổi đời cậu và có một
ảnh hưởng sâu xa trong văn học nước
Anh. Thực vậy, từ hồi ấy, nhân
vật đó đă viết 77 cuốn sách và
dùng ng̣i viết mà kiếm được trên
một triệu mỹ kim. Chắc bạn
viết văn sĩ đó: Chính là H. G. Wells.
Năm 1922, ở Californie có một thanh niên
nghèo khổ, sống với vợ. Giọng
chàng tốt; chủ nhật hát ở nhà
thờ và thỉnh thoảng hát trong những
lễ cưới để kiếm vài
mỹ kim. Nhưng khó đủ ăn lắm,
chàng nhất quyết xa châu thành về nhà quê
mà đời sống ít đắt đỏ.
Kiếm được một cái cḥi ở
giữa vườn nhỏ rồi ở đó.
Tiền mướn nhà tuy chẳng là bao, nhưng
đối với chàng c̣n nặng quá; chàng
không trả nổi. Thiếu 10 tháng tiền
nhà, chàng đành làm trong vườn nho để
trả nợ. Nhiều khi đói quá,
được ít nho lót ḷng chàng mừng
lắm. Chàng thất vọng đến
nỗi muốn giải nghệ đi bán xe cam
nhông... Chính lúc đó, văn sĩ Rupert Hugles
nghe chàng ca, khen chàng: 'Giọng anh tốt
lắm. Anh phải lên Nữu Ước,
kiếm thầy học, luyện thêm nó đi...'.
Chính lời khen đó đă mở đầu
cho quăng đường rực rỡ của
chàng. Chàng giăi bày tâm sự với tôi như
vậy. Chàng liều mượn hai ngàn rưỡi
mỹ kim rồi đi về miền Đông.
Thanh niên đó là nhà danh ca Lawrence Tibbett.
Nếu chúng ta biết đem ra ánh sáng
những tài năng sâu kín của những người
ở chung quanh chúng ta, th́ chẳng phải là
ta chỉ dẫn đạo, cải thiện,
phân phát họ mà thôi, ta c̣n cải tạo
họ nữa.
Bạn cho rằng tôi nói quá ư? Th́ đây,
xin bạn nghe những lời chí lư sau này
của giáo sư William James, một nhà tâm lư
có lẽ có tài nhất của châu Mỹ.
'Chúng ta hiện tại ra sao, và chúng ta có
thể trở thành một người ra sao,
hai trạng thái đó khác nhau xa lắm, cũng
như một người chập chờn
nửa thức nửa ngủ, so với
một người tỉnh táo hẳn hoi
vậy.
Chúng ta chỉ dùng một phần nhỏ
những khả năng vật chất và tinh
thần của chúng ta. Nói chung th́ loài người
sống mà bỏ phí ít nhiều khả năng
lắm. Có đủ bảo vật mà không dùng
tới'.
Bạn cũng có 'Những bảo vật mà
bạn không dùng tới', hoặc không
biết lợi dụng nó tới cực độ.
Trong những bảo vật đó, có khả
năng huyền diệu khích lệ người
khác bằng những lời khuyến khích thành
thật và khả năng làm cho họ
biết những năng lực tiềm tàng
của họ.
Vậy muốn thay đổi một người
mà không làm cho họ phật ư, giận
dữ, bạn phải:
'Lấy công tâm nhận những sự
gắng sức của họ, khen những
tấn tới nhỏ nhất của họ.
Lời khuyến khích của bạn phải
thành thật và nhân từ'.
Đó là quy tắc thứ 6.
Vị
tri kỷ giả, dụng
Một bà bạn tôi ở Nữu Ước,
bà Gent, mướn một người ở gái
và hẹn chị ta thứ hai sau lại
bắt đầu làm việc. Trong thời
gian đó, bà kêu điện thoại hỏi
một người chủ cũ về
hạnh kiểm của chị ta. Người
chủ đó không hài ḷng về chị ta
lắm... Nhưng khi chị lại, bà Gent nói:
'Chị Nellie, hôm nay tôi kêu điện
thoại hỏi bà chủ cũ của
chị. Bà ấy nói chị ngay thẳng và
đứng đắn, giỏi làm bếp và
khéo săn sóc trẻ em. Nhưng bà ấy có
thêm rằng, chị không siêng năng, nhà không
bao giờ lau chùi kỹ. Riêng tôi, tôi tin
rằng bà ấy nói quá đáng. Tôi coi người
chị cũng biết chị cẩn thận.
Chị sửa soạn thật gọn gàng. Tôi
chắc rằng chị chăm nom nhà cửa
không có chỗ nào đáng chê, cũng như
cách ăn bận của chị vậy.
Rồi chị coi, chắc chắn chị
sẽ vừa ư tôi lắm'.
Và mọi sự được vừa ư
thiệt. Chị Nellie muốn xứng đáng
với lời khen của bà chủ. Và
chị xứng đáng thiệt. Nhà cửa
sạch bóng. Mỗi ngày chị làm phụ
một giờ nữa để cọ, lau,
chứ không chịu để cho bà Gent
thất vọng.
Ông hội trưởng Công ty Baldwin sản
xuất đầu xe lửa nói:
'Những người đă trọng ta, mà ta
lại biết mến tài họ, th́ dễ
chỉ huy họ lắm'.
Tóm lại, nếu bạn muốn cho ai phát
triển một đức tính nào, bạn nên
hành động như đức tính đó
đă là một đặc sắc rơ ràng
nhất của người đó. Shakespeare nói:
'Nếu bạn c̣n thiếu một đức
tính, cứ xử sự như đă có nó
rồi'. Muốn cải thiện một người,
bạn cứ ra vẻ tin người đó có
đức tính này đức tính nọ đi.
Tỏ ra tin cậy người đó đi,
khen họ đi: Họ sẽ gắng sức
phi thường để xứng đáng
với lời khen của bạn.
Trong cuốn 'Kư ức cuộc đời
sống chung với Maeterlinck', bà Georgette Leblanc
kể chuyện một sự thay đổi
dị thường trong đời một cô
bé nước Bỉ.
Bà nói: 'Tôi ăn cơm tháng tại một khách
sạn gần nhà và họ cho một người
hầu gái đem lại nhà tôi. Tên chị là
'Marie rửa chén' v́ hồi mới vô làm, người
ta để chị rửa chén. Chị
xấu như quỷ, mắt lé, chân đi
chữ bát, gây giơ xương, đần
độn.
Một hôm, trong khi chị đặt bàn, tôi
đột ngột bảo chị:
''Chị Marie, chị có rất nhiều
chỗ đáng quư, chị có biết không?''.
V́ quen giấu t́nh cảm của ḿnh, chị
đứng thừ ra một lúc, câm như
hến và trơ như đá. Rồi đặt
đĩa lên bàn, chị thở dài, ngây ngô
nói: 'Thưa bà, thiệt tôi không bao giờ
ngờ như vậy'. Chị không hỏi thêm
một câu, lặng lẽ trở vô bếp và
nhắc đi nhắc lại lời tôi đă
nói cho mọi người nghe.
Ḷng tin của chị mạnh tới nỗi
không ai nỡ chế giễu chị, mà
từ hôm đó, c̣n hơi nể chị
nữa. Nhưng sự thay đổi lạ lùng
nhất, chính là sự biến hóa của thâm
tâm chị. Tin chắc rằng chị có
nhiều chỗ đáng quư mà không ai
biết, chị hăng hái sửa soạn,
trau giồi nhan sắc đến nỗi
tuổi xuân của chị mà chị quên
bẵng đi, trở lại rực rỡ trên
nét mặt chị và người ta không
thấy chị xấu nữa.
Hai tháng sau, lúc tôi dọn nhà, chị cho tôi
hay sắp thành hôn với cháu đầu
bếp chánh. Chị ta nói: 'Tôi sắp
được sang trọng' và cám ơn tôi.
Chỉ có một câu ngắn mà thay đổi
cả đời chị ta'.
Bà Georgette Leblanc đă khen chị Marie và
lời khen đó đă thay đổi hẳn
người đàn bà đó.
Mới rồi tôi được hầu
chuyện một ông giám đốc Công ty
'exchange Buffets'. Hai mươi sáu tiệm, cao lâu
hợp lại thành công ty đó và cùng theo
một chính sách đặc biệt, lấy
'danh dự' làm trọng.
Trong những tiệm đó, sáng lập
từ năm 1885, không bao giờ người
ta đưa giấy tính tiền cho khách hàng
hết. Bạn muốn kêu món ǵ th́ kêu,
ăn xong rồi, bạn tính tiền lấy,
rồi khi ra, đem lại quỹ trả. Không
kiểm soát ǵ hết, không có thẻ ǵ
hết.
Tôi ngạc nhiên lắm, hỏi:
'Nhưng ông phải có vài người giám
thị chứ? Không thể tin hết thảy
các khách ăn được'.
- Chúng tôi không có người giám thị nào
hết - ông giám đốc trả lời - Có
lẽ cũng có người ăn quịt, nhưng
chúng tôi không cần biết tới.
Chúng tôi chỉ biết rằng chính sách
của chúng tôi hẳn có chỗ hay, nếu
không th́ sao đă thịnh vượng trong
nửa thế kỷ nay được?
Tại những cao lâu đó, khách ăn
được đăi như người lương
thiện, biết trọng danh dự. Cho nên
hết thảy, giàu, nghèo, ăn trộm,
ăn xin... đều muốn được
xứng đáng với ḷng tin cậy của
chủ tiệm.
Ông Lawes, giám đốc khám Sing Sing c̣n nói:
'Đối với một quân vô lại,
muốn cho được việc, chỉ có
mỗi một cách là tỏ vẻ tin cậy
nó, đăi nó như một công dân lương
thiện và đáng trọng, cứ nhận
ngay rằng nó trung thực, đứng đắn.
Được bạn tin cậy, nó phỉnh
mũi ra và có lẽ gắng sức để
được xứng đáng ḷng tin đó'.
Lời đó hay và đúng đến nỗi
tôi muốn nhắc lại đây:
'Đối với một quân vô lại,
muốn cho được việc, chỉ có
mỗi một cách là tỏ vẻ tin cậy
nó, đăi nó như một công dân lương
thiện và đáng trọng, cứ nhận
ngay rằng nó trung thực, đứng đắn.
Được bạn tin cậy, nó phỉnh
mũi ra và có lẽ gắng sức để
được xứng đáng với ḷng tin
đó'.
Vậy, muốn sửa đổi một người
mà không làm cho họ phật ư, giận
dữ:
'Bạn gây cho người ấy một thanh
danh rồi họ sẽ gắng sức để
được xứng thanh danh đó'.
Đó là quy tắc thứ 7.
Hăy
khuyến khích người
Một ông bạn của tôi, đă bốn
chục cái xuân xanh, gần đây mới
đính hôn cùng một cô, và vị hôn thê
của ông khuyên ông học khiêu vũ -
kể cũng hơi trễ!
Sau ông kể lể tâm sự với tôi:
'Trời biết cho rằng tôi nhảy dở
hết chỗ nói. Tôi khiêu vũ theo một
lối cổ từ hai chục năm về
trước. Cô giáo dạy tôi, nói thẳng
cho tôi biết rằng phải quên hết
những điều cũ đi để
bắt đầu học lại từ đầu.
Cô làm tôi hoàn toàn thất vọng. Tôi xin thôi.
Lại học một cô khác. Cô này lấy ḷng
tôi, có lẽ quá khen tôi một chút, nhưng
tôi thích như vậy. Với một
giọng tự nhiên, cô nói rằng điệu
bộ của tôi có lẽ hơi xưa, nhưng
nguyên tắc th́ đúng, và muốn học
những điệu mới không khó khăn
chi hết.
Cô thứ nhất chê tôi mà làm tôi hết
muốn học. Cô thứ nh́, trái lại, làm
bộ như không thấy những lỗi
lầm của tôi mà không ngớt khen
những tiến bộ của tôi. Cô nói:
'Trời phú cho ông cái giác quan về tiết
điệu; ông thiệt là người
trời sinh ra để mà khiêu vũ'.
Lương tri của tôi bảo tôi rằng
trước cũng vậy mà sau này cũng c̣n
như vậy, tôi suốt đời sẽ
chỉ là một 'thằng' khiêu vũ dở
thôi. Nhưng trong thâm tâm tôi, tôi thích tin
rằng không biết chừng lời cô đó
đúng cũng nên.
Th́ cô ta ăn tiền của tôi, phải khen
tôi là sự dĩ nhiên... Nhưng nghĩ
tới điều đó làm quái ǵ?
Dù sao đi nữa, từ bữa cô ta cho tôi
tin rằng tôi có 'giác quan về tiết điệu'
th́ tôi khiêu vũ khá hơn trước
nhiều. Lời đó đă phấn phát tôi,
làm cho tôi hy vọng và gắng sức tập
tành cho khá thêm lên'.
Chê một đứa nhỏ, một đức
lang quân hay một người làm công
rằng họ đần độn, không có
một chút tài năng ǵ, rằng họ 'đầy
bị thịt', 'đoảng vị', chẳng
được việc ǵ, không hiểu chút
chi hết, tức là diệt hết ư
muốn tự cải của họ đi.
Nên thử phương pháp ngược
lại. Khuyến khích họ nhiều vào; nói
rằng công việc dễ làm lắm. Tỏ
ra rằng ta tin nơi tài năng họ,
rằng họ có tài mà họ không ngờ...
và bạn sẽ thấy họ thức
suốt đêm để tập tành cho hoàn
hảo.
Đó là phương pháp của nhà diễn
thuyết Lowell Thomas. Ông đó thực có
khiếu, có thiên tài dẫn đạo người.
Ông làm cho bạn tự tin. Ông truyền cho
bạn ḷng tin chắc, sự bạo dạn,
sức mạnh, làm cho bạn thay đổi
thành một người khác. Mới rồi,
tôi đi nghỉ cuối tuần với ông bà
Thomas. Trong khi củi cháy lách tách trong ḷ sưởi,
người ta mời tôi đánh bài bridge.
Đánh bài 'Bridge'? Không! Không, không, không. Tôi
không biết đánh! Không biết chút chi
hết. Không thể được!
Ông Thomas bảo tôi: 'Này anh Dale. Đánh bridge
dễ lắm mà. Chỉ cần có trí nhớ
và biết suy xét. Anh đă nghiên cứu
về trí nhớ. Đó là sở trường
của anh. Anh thử chơi đi, anh sẽ
mau biết lắm'.
Và, tức th́, không kịp nghĩ ngợi ǵ
hết, tôi đă thấy tôi ngồi vào
hội, lần đó là lần thứ
nhất trong đời tôi. Ông Thomas chỉ
bảo tôi rằng tôi có thiên tư về bài,
và đánh bài dễ lắm, là tôi liều chơi
liền.
Ely Culbertson là vua bài bridge. Những sách ông
viết về nó được hoan nghênh
nhiệt liệt và dịch ra mười hai
thứ tiếng. Mà ông thú với tôi rằng
sở dĩ thành một nhà chuyên môn như
vậy chỉ nhờ một người
đàn bà khuyến khích.
Ông đă thử đủ nghề nhưng chưa
bao giờ có ư dạy đánh bài hết. Không
những ông đánh bài thấp mà c̣n
ương ngạnh tới nỗi không ai
muốn đánh bài với ông.
Hồi đó ông gặp cô Josephine Dillon,
trẻ đẹp, làm giáo sư dạy đánh
bài 'bridge'. Ông thương cô và cưới cô.
Cô nhận thấy ông phân tích giá trị
từng quân bài kỹ lắm, và biểu ông
rằng ông có thiên tư kỳ dị và
bất ngờ về lối chơi đó.
Đó chỉ là lời khen, không hơn không
kém, nhưng lời khen đó đă xoay
hẳn cục diện đời ông.
Vậy muốn thay đổi thái độ
của một người mà không làm cho người
ấy phật ư, giận dữ, bạn
phải:
'Khuyến khích họ, tức th́ lỗi
lầm ǵ cũng dễ sửa, việc khó khăn
ǵ cũng dễ làm'.
Đó là quy tắc thứ tám.
Làm
sao cho người ta vui sướng ...
Làm sao cho người ta vui sướng mà làm
công việc bạn nhờ cậy
Hôm đó vào năm 1915. Đă trên một năm,
các nước ở châu Âu chém giết
lẫn nhau ghê gớm chưa từng thấy
trong lịch sử. Châu Mỹ ở trong t́nh
trạng kinh hoảng. Có thể lập
lại ḥa b́nh được không? Không ai
biết được.
Nhưng Tổng thống Wilson nhất
quyết gắng sức làm cho kỳ
được. Ông sai một mật sứ
đi hội nghị với các nhà cầm
đầu châu Âu.
William Jennings Bryan, Tổng trưởng nội
vụ, sứ đồ của ḥa b́nh, nóng ḷng
đi lắm. Ông thấy đó là một
dịp phụng sự một lư tưởng
cao cả và trở nên bất hủ. Nhưng
Tổng thống Wilson lựa một người
khác, đại tá House, bạn thiết
của ông. Và ông cậy đại tá làm công
việc khó khăn là báo tin đó cho Bryan hay.
Đại tá chép cuộc gặp gỡ đó
trong nhật kư của ông:
'Bryan thất ư lắm, khi ông hay tin rằng tôi
được Tổng thống giao phó cho
sứ mệnh mà ông ao ước'.
Tôi trả lời ông ta: Tổng thống nghĩ
nên giữ kín cuộc vận động
đó. Mà nếu Bryan đi, tên tuổi
của ông mà ai cũng biết, đủ làm
cho người ta chú ư tới và tự
hỏi ông tới với mục đích chi
đây...'.
Nghĩa là đại tá muốn cho ông Bryan
hiểu rằng ông là người quan
trọng quá, không nên nhận sứ mệnh
đó - và ông Bryan hài ḷng.
Khôn khéo, lại có nhiều kinh nghiệm,
đại tá House đem thực hành một
trong những quy tắc lớn nó điều
khiển sự giao thiệp giữa loài người.
Quy tắc đó là: Làm sao cho người khác
thấy vui sướng mà làm công việc
bạn cậy họ.
Khi Tổng thống Wilson mời ông Mc. Adoo giúp
việc trong văn pḥng ông, ông cũng áp
dụng quy tắc đó, mặc dù điều
ông tin cậy không phải là một sự hy
sinh, mà chính là một danh dự vô cùng cho ông
Mc. Adoo, ông này thấy vui thích bội phần
và kể lại như vầy:
'Ông (Wilson) bảo tôi rằng ông sẽ sung sướng
lắm, nếu tôi chịu nhận chức
Tổng trưởng Quốc khố. Ngôn
ngữ ông thiệt lịch sự: ông cho tôi
cảm tưởng rằng nếu tôi
chịu nhận vinh dự lớn đó, th́
tức là ban cho ông một đặc ân'.
Tôi biết một diễn giả được
mọi nơi mời đến diễn
thuyết. Ông ta không thể làm vừa ḷng
mọi người được cho nên
bắt buộc phải từ chối, nhưng
ông từ chối một cách khéo léo đến
nỗi người ta vui vẻ ra về. Ông làm
cách nào? Tất nhiên ông không nói cụt
ngủn rằng ông bận việc lắm...
Không. Sau khi cám ơn và tỏ ḷng tiếc không
nhận lời được, ông vội vàng
giới thiẹu một người có
thể thay ông được. Nghĩa là không
để cho người kia có đủ th́
giờ thất vọng trước sự
từ chối của ông và ông làm cho tư tưởng
người đó hướng ngay về
diễn giả mà ông giới thiệu.
Ông nói:
'Tại sao ông không cậy ông bạn tôi,
Cleveland Rodgers, nhà xuất bản tờ Brooklyn
Eagle? Hoặc ông Guy Hickock? Ông ấy đă
viết báo 15 năm ở Paris và biết
rất nhiều chuyện thú vị... Hay là ông
lại hỏi ông Livingston Longfellow xem sao?
Chắc ông biết ông ấy có một
cuốn phim tuyệt đẹp về
những cuộc săn bắn lớn ở
ấn Độ...'.
Ông Want, quản lư một nhà in lớn ở
Nữu Ước, có một người
thợ máy mà ông nhất định muốn
sửa đổi tính t́nh. Anh thợ đó
phải trông nom cho một loạt máy vừa
sắp vừa đúc chữ và nhiều máy
khác nữa, sao cho những máy đó chạy
đêm và ngày mà không hư hỏng, khỏi
ngưng lại. Anh ta phàn nàn công việc
nặng nhọc quá, làm việc nhiều
giờ quá, và xin thêm người phụ.
Ông Want không cho thêm người phụ, cũng
không rút công việc, rút giờ làm việc,
mà anh ta vẫn vui ḷng. Ông làm cách nào? Ông cho
riêng anh ta một pḥng giấy với một
tấm bảng treo ở cửa đề tên
và chức mới của anh. 'Giám đốc
pḥng giữ ǵn máy móc'.
Thành ra anh thợ máy không phải là một
nhân viên hạ cấp, mà ai cũng có
quyền sai bảo nữa, anh nay đă
nghiễm nhiên là một viên chỉ huy
rồi. Người ta đă công nhận giá
trị tài năng của anh. Tự thấy cái
quan trọng và uy thế mới của ḿnh,
anh hài ḷng và tiếp tục làm không phàn nàn
chi hết.
Bạn cho vậy là con nít ư? Có lẽ là
con nít thiệt. Mà người ta cũng đă
cho Nă Phá Luân đă dùng phương pháp con nít
đó khi ông lập ra huy chương Bắc
đẩu bội tinh, phân phát một ngàn năm
trăm chiếc cho lính ông và thăng chức
'Pháp quốc Thống chế' cho 18 đại
tướng, gọi đội quân của ông
là 'Đại binh'.
Ai chế giễu ông rằng dùng đồ ḷe
loẹt vô dụng đó để thưởng
những người đă nhiều lần vào
sanh ra tử với ông, ông đáp: 'Loài người
vẫn bị cai trị bằng những đồ
ḷe loẹt đó'.
Biết cách phân phát chức tước và uy
quyền như Nă Phá Luân, th́ chúng ta cũng
sẽ được những kết quả
như vị anh hùng đó.
Trước nhà bà Gent, một bà bạn
của tôi, mà tôi đă có dịp nói
tới, có một băi cỏ đẹp mà
tụi con nít thường tới giày xéo phá
phách mỗi ngày. Mắng, dọa, dỗ dành
đều vô hiệu. Tức th́ bà thay đổi
chiến thuật. Bà kêu đứa nhỏ
ngỗ nghịch nhất, tặng cho nó
chức 'thám tử' và giao cho trách nhiệm
đuổi tất cả những đứa
vô chơi trên băi cỏ, bất kỳ là
đứa nào. Và vấn đề đó
giải quyết xong lập tức.
Viên 'thám tử' nhóm lửa ở sau nhà, nung
một thanh sắt cho tới trắng ra và
dọa sẽ dí vào đứa nhỏ nào dám
dẫm lên vườn cỏ!
Bản tính loài người như vậy. Cho
nên muốn sửa đổi một người
mà không làm cho họ phật ư, giận
dữ:
'Bạn phải xử
trí ra sao cho người đó thấy sung sướng
làm công việc mà bạn đề nghị'.
Đó là quy tắc thứ 9.
|
Kết quả
|
Vô lư thượng hạng..."
Tôi biết bạn nghĩ ǵ khi đọc
đầu đề chương này. Bạn
bĩu môi: 'Vô lư thượng hạng!
Nồng nặc mùi quảng cáo của bọn
bán cao đơn hoàn tán và của các 'mét'
coi chỉ tay đoán vận mạng'.
Nếu bạn nghĩ như vậy, tôi không
dám căi. Mười lăm năm trước,
có lẽ tôi cũng như vậy, khi đọc
một câu như vậy. Bạn hoài nghi ư?
Càng tốt! Tôi yêu những người hoài
nghi. Tôi gốc gác ở Missouri: như vậy
bạn đủ hiểu... Tư tưởng
của loài người sở dĩ tiến
được chính nhờ bọn ṭ ṃ,
nhờ các vị thánh Thomas hay ngờ vực,
nhờ hết thảy những người không
chịu tin v́ chưa có chứng cớ rơ ràng.
Tôi muốn thành thực hỏi bạn hai
chữ 'mầu nhiệm' đó dùng có đúng
không? Không - Không được đúng
lắm, v́ c̣n ở dưới sự
thực xa. Vài bức thư chép lại trong
chương này đă có kết quả mà có
người cho rằng bội phần mầu
nhiệm kia. Và người đó là ai? Chính
là ông Ken R.Dyke, một nhà chuyên môn có danh
nhất về nghề bán hàng ở Mỹ. Ông
trước làm giám đốc thương măi
tại xí nghiệp Johns Manville, hăng làm
những mái nhà pḥng hỏa và bây giờ
chỉ huy pḥng quảng cáo tại công ty
Palmolive Peet, lại đồng thời làm
hội trưởng 'Liên đoàn' các nhà
quảng cáo nữa. Cứ 100 bức thư mà
ông Dyke thường gởi cho các tiệm bán
lẻ hàng hăng ông sản xuất, để
hỏi thăm t́nh h́nh, th́ ông chỉ
nhận từ 5 tới 8 thư hồi âm, nghĩa
là từ 5 tới 8 phần 100. Cho nên ông cho
rằng được 15 phần trăm đă
là kỳ dị và nếu được 20
phần 100 th́ thật là có phép mầu
nhiệm.
Vậy mà một bức thư của ông
gởi đi có chép lại ở dưới
đây, đă được 42 phần trăm
thư hồi âm! Nghĩa là mầu nhiệm
tới gấp hai. Đó là những chứng
cớ mà người ta không thể nhún vai mà
không công nhận được. Vả
lại không phải chỉ một bức thư
đó được cái may mắn bất
ngờ đó đâu; cả chục bức thư
khác cũng thành công vậy.
Nguyên do ở đâu? Ông Ken Dyke đích thân
chỉ cho bạn đây: 'Sau khi học
những lớp giảng của ông Dale
Carnegie, tôi làm cho những bức thư tôi
gởi để ḍ t́nh h́nh, công hiệu tăng
lên một cách lạ lùng. Tôi hiểu
rằng những lư lẽ mà tôi dùng từ trước
tới nay hoàn toàn vô ích. Tôi thực hành
những quy tắc đă học được,
và làm cho công hiệu của những bức
thư tôi gởi tăng lên từ 500 tới
800 phần trăm'.
Đây, bức thư mầu nhiệm đó
đây. Nó làm cho người nhận
được vui thích, v́ trong thư đă
xin người này giúp một việc,
một việc nó làm cho người đó
thấy sự quan trọng của ḿnh.
Sau mỗi đoạn, tôi có b́nh phẩm.
'Ông Blank thân mến.
Ông có thể làm ơn giúp tôi vượt
một nỗi khó khăn không?
(Ta thử tưởng tượng cảnh
đó: một người buôn bán tầm thường
ở arizona nhận được một
bức thư của một nhà quảng cáo
lớn nhất ở Nữu Ước, mà
trong thư đó ngay từ câu đầu, nhà
quảng cáo đó cậy một việc. Tôi
tưởng tượng nhà buôn đó tự
nhủ: 'Nếu ông ta đương gặp
sự khó khăn, th́ có thể nhờ
cậy ḿnh được. Ḿnh vẫn thích
giúp kẻ khác... Nào, coi xem nào, có chuyện
chi khó khăn đây?).
Năm ngoái, tôi đă khuyên các ông giám đốc
của công ty tôi rằng cách hiệu
nghiệm nhất để tăng số hàng
bán lẻ là mở một cuộc tuyên
truyền kịch liệt suốt một năm
để bán trực tiếp, và phí tổn
cuộc vận động đó do công ty
sản xuất chịu hết.
(Nhà buôn chắc tự nhủ: 'Th́ đúng
rồi, cố nhiên họ phải gánh
những phí tổn đó chứ, v́ họ
thu cả triệu bạc lời, trong khi ḿnh
nai lưng ra làm để kiếm từng
xu... Rồi sao nữa?).
Mới rồi, tôi gởi một tờ
phỏng vấn có nhiều câu hỏi cho 1.000
nhà đại lư đă hưởng lời
trong cuộc tuyên truyền đó, và vài trăm
bức thư hồi âm tôi đă nhận
được chứng tỏ rằng
những nhà đại lư rất hài ḷng
về cách hợp tác đó.
Cho nên chúng tôi đă lập một kế
hoạch cổ động mới mà tôi
biết rằng sẽ làm ông vui ḷng hơn
kế hoạch năm rồi nữa.
Nhưng sáng nay, ông hội trưởng
của chúng tôi đă nghiên cứu với tôi
những tờ báo cáo về kết quả
cuộc tuyên truyền trước và cậy
tôi cho biết cuộc tuyên truyền đó
đă giúp cho hội tăng gia được
số hàng bán là bao nhiêu. V́ lẽ đó nên
tôi phải nhờ cậy ông giúp tôi trả
lời câu hỏi đó.
(Câu này tuyệt: 'Tôi phải nhờ cậy
ông giúp tôi trả lời câu hỏi đó'.
Nhà buôn ở arizona nghĩ rằng ông lớn
đó biết điều lắm và biết
sự xét đoán của thân chủ là có giá
trị. Bạn nên nhớ rằng Ken Dyke không
hề phí th́ giờ khoe sự trọng
của ông ta. Trái lại, ông vội vàng
tỏ ra rằng ông trông cậy ở sự
giúp đỡ của nhà buôn đó nhiều
lắm. Ông nhận ngay rằng không có sự
giúp đỡ ấy, ông không thể nào
viết bài báo cáo cho ông hội trưởng
được. Lời lẽ như vậy,
th́ làm sao nhà buôn ở arizona không hài ḷng
được? V́ dù sao ông ta cũng chỉ
là một người phàm như chúng ta).
Tôi muốn xin ông giúp tôi như vầy:
1. Biên lên bản đồ đính theo đây,
tổng số nóc nhà mới hoặc nóc nhà
sửa lại mà ông cho là đă bán
được, nhờ cuộc cổ động
năm ngoái.
2. Cho tôi biết số hàng đă bán như
vậy tổng cộng bao nhiêu tiền: con
số ông cho càng đúng càng hay.
Nếu ông giúp tôi việc đó, tôi sẽ
lấy làm quư hóa lắm và mang ơn ông vô cùng.
Kính chào...
(Bạn nên để ư rằng, trong đoạn
cuối đó, hai chữ 'tôi' và 'ông' quan
trọng khác nhau. Chữ 'tôi' phải đọc
nho nhỏ mà chữ 'ông' phải đọc
lớn tiếng. Rồi lại không tiếc
lời cám ơn. Nào 'lấy làm quư hóa
lắm', nào 'mang ơn ông vô cùng').
Bức thư thường lắm, phải không?
Vậy mà nó 'mầu nhiệm' lạ lùng.
Tại sao? Tại người viết đă
xin người nhận bạn cho một ân
huệ nhỏ, mà như vậy tất nhiên
người nhận thư tự thấy ḿnh
quan trọng lắm.
Chiến thuật vô hại đó luôn luôn có
kết quả. Benjamin Franklin v́ dùng nó mà làm
cho một kẻ thù biến thành bạn thân
suốt đời của ông.
Franklin hồi thiếu thời, đem hết
số tiền để dành được,
đặt vào một nhà in nhỏ. Ông
được bầu làm thư kư hội
nghị ở Philadelphie, do đó mà được
độc quyền lănh in hết thảy
những công văn trong các sở. Địa
vị đó rất có lợi cho ông và ông
quyết giữ nó. Chẳng may ông có một
kẻ thù trong hội nghị: người
đó là một nhà giàu có, và có quyền
thế trong tỉnh. Người đó ghét ông
tới nỗi đă có lần công kích ông trước
công chúng trong một bài diễn văn.
Cái đó mới thật nguy hại. Cho nên
Franklin quyết chinh phục được ḷng
thiện cảm của kẻ thù. Nhưng không
phải dễ. Kiếm cách thi ân với người
đó sao? Không được. Phương pháp
đó gợi ḷng ngờ vực của người
ta và có lẽ người ta c̣n khinh bỉ
nữa.
Franklin khôn ngoan, khéo léo lắm, không dại
dột vậy đâu. Ông làm trái hẳn
lại: Ông xin kẻ thù ông giúp ông một
việc.
Bạn cứ yên ḷng: Ông không hỏi mượn
tiền người đó đâu. Không. Ông
xin một ân huệ, một ân huệ mà người
kia vui ḷng cho, v́ xin như vậy là tỏ ra
một cách khéo léo rằng ông khâm phục người
đó có tài cao học rộng.
Xin bạn nghe chính ông Franklin kể chuyện
lại:
'Tôi nghe người ta nói rằng trong tủ
sách ông ta có quyển sách rất hiếm, quư,
tôi bèn viết cho ông vài hàng tỏ ư ước
ao được đọc cuốn ấy
lắm và xin ông làm ơn cho mượn trong
vài ngày.
Ông ta cho mang lại nhà tôi liền và
khoảng một tuần lễ sau, tôi cho người
mang trả với một bức thư trong
đó tôi tỏ ư cám ơn ông lắm.
Khi chúng tôi lại gặp nhau ở hội
nghị, ông ta tṛ chuyện với tôi, có
lễ độ lắm (trước kia không
khi nào ông nói với tôi nửa lời).
Rồi từ đó ông sốt sắng giúp tôi,
bất kỳ trong cơ hội nào, thành
thử chúng tôi trở nên đôi bạn
rất thân cho tới khi ông mất'.
Franklin đă khuất một trăm rưỡi
năm rồi mà triết lư của ông
vẫn c̣n có những kết quả dị thường.
Một người học tṛ của tôi
Albert B. Amsel đă áp dụng nó một cách khéo
léo.
Ông Amsel làm đại lư cho một nhà bán
ống ch́ và ḷ sưởi bằng đồng,
từ lâu nay vẫn kiếm cơ hội bán
hàng cho một xí nghiệp đúc ch́ lớn
ở Brooklyn. Xí nghiệp đó vừa có
nhiều khách hàng, vừa được tin
cậy. Nhưng ông không tiến được
một bước nào hết. V́ ông chủ xí
nghiệp đó là hạng người lạ
lùng, lúc nào cũng hầm hầm, nói năng
th́ cục cằn thô lỗ. Ngồi sau
chiếc bàn làm việc, ngậm điếu ś
gà lớn trong góc miệng, mỗi lần trông
thấy mặt Amsei, ông ta nói như chó
sủa: 'Hôm nay không mua chi hết. Đừng
uổng công làm mất th́ giờ tôi! Đi
chơi!'.
Nhưng một hôm ông Amsel dùng một
chiến thuật khác, một chiến
thuật mà kết quả là bán được
một số hàng lớn, được thêm
một khách hàng thành bạn thân của ông và
sau cùng được nhiều vụ làm
ăn khác nữa.
Hăng ông Amsel đang điều đ́nh để
mua một chi điếm mới ở làng
Queens, tại Long Island. Miền đó, ông
chủ xí nghiệp đúc ch́ biết rơ
lắm và có nhiều khách hàng ở đó.
Khi ông Amsel trở lại thăm nhà doanh
nghiệp, ông vội nói ngay:
- Thưa ông C, hôm nay tôi không lại để
cậy ông mua hàng cho tôi đâu. Tôi chỉ
xin ông chỉ giùm tôi một điều thôi...
Ông có thể tiếp tôi một lát được
không?
- Hừ! Sao! Ông C vừa đáp vừa lăn
điếu x́ gà từ mép này qua mép kia - Nói
thử coi!
- Hăng tôi tính mở một chi điếm
ở làng Queens. Mà không ai biết nơi đó
rơ hơn ông. Cho nên tôi tự tiện lại
hỏi ư kiến ông. Ông nghĩ ư định
đó của tôi có được không. Nên
làm hay không?
T́nh thế thay đổi hẳn. Đă
từ lâu, nhà đúc ch́ quen tỏ sự quan
trọng của ḿnh bằng giọng thô
lỗ với người lại bán hàng cho
ông và la ầm lên, mời họ 'cút'. Nhưng
lần này ông Amsel lại hỏi ư ông.
Tốt lắm! Người thay mặt cho
một hăng lớn lại hỏi ư kiến ông
để về trả lời cho những viên
giám đốc của y!
Ông C bèn kéo ghế mời ngồi, rồi
trong một giờ đồng hồ ông
diễn thuyết về những cái lợi buôn
bán ở làng Queens. Không những tán thành nơi
lựa làm kho hàng, mà c̣n vạch cho cả
một chương tŕnh để mua cửa
hàng đó, dự trữ hàng hóa và khai trương
xí nghiệp mới. Để tỏ ra ḿnh là
một người quan trọng, ông ta lại
c̣n khuyên nên quản lư xí nghiệp ra sao. Sau
cùng, ông nói về đời tư của ông,
và kể lể cả tâm sự về
nỗi buồn bực trong gia đ́nh ông
nữa...'.
Ông Amsel nói:
'Chiều hôm đó, khi từ biệt ông ta,
không những ông đặt mua một số
hàng quan trọng mà c̣n bắt đầu thành
bạn thân của tôi nữa. Bây giờ tôi
đánh quần với thằng cha mà hồi
trước chưa trông thấy tôi, y đă
nhe nanh ra chỉ chực cắn. Nguyên do
sự thay đổi đó chỉ v́ tôi
nhờ cậy ông ta một việc, nó làm
thỏa tính tự phụ của ông ta'.
Chúng ta nghiên cứu bức thư sau này
nữa của Ken Dyke, bức thư mà trong
đó chánh sách 'xin Ngài làm ơn' được
áp dụng một cách khéo léo làm sao!
Cách đây vài năm, ông Dyke thất vọng
lắm v́ ít khi ông nhận được
hồi âm những bức thư ông gởi
cho các thân chủ của ông: thầu khoán, thương
gia, kiến trúc sư, để xin họ cho
biết t́nh h́nh buôn bán. Thường thường
một trăm bức thư mới được
một bức trả lời. ít quá. Nếu
được hai bức, ông đă cho là khá,
c̣n được ba bức th́ thật là
tốt lắm. Mà nếu một trăm
bức được mười bức
trả lời th́ ông phải cho là một
sự lạ.
Vậy mà bức thư sau này được
50 phần trăm thư trả lời, có
phải là năm lần mầu nhiệm hơn
không? Và những bức thư hồi âm dài
tới hai ba trang, tràn trề t́nh thân ái, ḷng
hăng hái và những lời khuyên có ích!
Bức thư đó đây. Bạn nhận
thấy rằng nó gần như bức thư
trên kia. Bạn đọc đi rồi
thử tưởng tượng t́nh cảm
của người nhận được,
thử kiếm lẽ tại sao bức thư
đó 'kết quả năm lần hơn
một phép mầu'.
Ông Doe thân ái,
Ông giúp tôi một việc nhỏ được
không?
Đă gần một năm, tôi khuyên công ty tôi
in một cuốn tổng mục các khí
cụ và vật liệu với cách dùng đồ
đó, để các kiến trúc sư dễ
tra cứu. Tôi xin gởi một bản theo
đây biếu ông. Đó là cuốn thứ
nhất trong loại ấy.
Nhưng những cuốn tổng mục
ấy phân phát gần hết rồi. Ông giám
đốc công ty đồng ư với tôi
rằng chỉ nên tái bản nếu có
chứng cớ chắc chắn rằng
cuốn đó in ra có lợi cho chúng tôi. Chúng
tôi định lập một hội đồng
để xem xét có nên tái bản cuốn
tổng mục đó chăng, và xin ông vui ḷng
nhận chân trong hội đồng đó cùng
với 49 vị kiến trúc sư trong các
miền khác, để giúp ư kiến chúng tôi.
Để cho công việc của ông được
dễ dàng, tôi đă biên đàng sau bức
thư này ít câu hỏi rất giản
dị. Ông sẽ ban riêng cho tôi một ơn
lớn nếu ông vui ḷng trả lời
những câu hỏi đó và thêm vài lời b́nh
phẩm mà ông cho là có ích rồi bỏ
bức thư vào trong bao thư có dán c̣
sẵn tôi gởi theo đây.
Tôi không cần phải thưa với ông
rằng ông không chịu trách nhiệm ǵ
về những lời chỉ bảo của
ông hết. Vậy tôi xin để ông tự
ư định đoạt xem cuốn tổng
mục nên bỏ đi, hay nên tái bản và
chúng tôi sẽ cải cách theo lời khuyên
của ông.
Dù sao cũng xin ông tin rằng tôi hoan nghênh
sự cộng tác của ông lắm...
Tôi cảm tạ ông và kính chúc ông...
Giám đốc pḥng thương vụ
Ken R. Dyke
Và bây giờ, tôi xin dặn bạn điều
này. Tôi do kinh nghiệm mà biết rằng sau
khi đọc bức thư đó, có vài
bạn đă dùng phương pháp đó như
cái máy thiếu hẳn vẻ tự nhiên:
họ không dùng những lời khen tặng thành
thật mà lại dùng một lối nịnh
hót dối trá và ti tiện.
Như vậy tất nhiên là không thành công.
Thật vậy, chúng ta ai cũng khát khao
được người khen ngợi và quư
mến, nhưng chúng ta rất sợ lời
nịnh hót.
Tôi xin nhắc lại: những phương pháp
chỉ trong cuốn này chỉ có kết
quả khi nó được áp dụng
một cách chân thành, tự đáy ḷng mà ra.
Những điều tôi chỉ cho bạn, không
phải là những thuật xảo thủ,
những mánh khóe để thành công đâu.
Không. Đó là một quan niệm mới
về về nhân sinh, một triết lư
mới. |
Bảy lời khuyên
để tăng hạnh phúc trong gia đ́nh
|
Chôn sống
hạnh phúc gia đ́nh cách nào lẹ
nhất?
Năm 1852, Hoàng đế Nă Phá Luân đệ
tam say mê Nữ bá tước Mari Eugénie Ignace
Augustine de Montiji, người đàn bà đẹp
nhất thế giới và cưới nàng.
Cận thần có người can gián Hoàng
đế v́ lẽ không được 'môn
đăng hộ đối'.
Nhưng Hoàng đế nói: 'Có cần chi
điều đó'. Cái duyên và vẻ đẹp
lộng lẫy của nàng làm cho Hoàng đế
mê ly như gặp tiên. Trong một bài
diễn văn, Hoàng đế nói như thách
cả nước Pháp: 'Trẫm đă cưới
một người đàn bà mà Trẫm yêu và
ngưỡng mộ, như vậy c̣n hơn là
cưới một người mà Trẫm không
được biết'.
Hoàng đế và Hoàng hậu có đủ
điều kiện để cuộc lương
duyên hoàn toàn theo lư tưởng: Sức
mạnh, tiền bạc, quyền thế quang
vinh, sắc đẹp, t́nh yêu. Chưa bao
giờ người ta thấy hạnh phúc thiêng
liêng trong gia đ́nh chói lọi rực rỡ
như vậy.
Than ôi! Chẳng bao lâu, lửa thiêng đó
chập chờn, lu mờ và tắt hẳn. Nă
Phá Luân đă có thể làm cho nàng Eugénie thành
một bà Hoàng hậu được, nhưng
không có ǵ ở đời này, cả t́nh thương
của ông, cả uy quyền của ông, có
thể thay đổi nổi tính t́nh của
người đàn bà đó.
Bà điên cuồng v́ ghen tuông bị nghi
ngờ nó dày
ṿ bà, làm cho đời sống của ông không
được mảy may tự do. Bà không
kể ǵ tới mệnh lệnh của ông
nữa, bà sồng sộc xông vào văn pḥng
của ông trong khi ông bề bộn việc nước;
trong lúc ông bàn kín việc quốc gia đại
sự, bà cũng vào cho kỳ được
mới nghe. Bà nhất định không bao
giờ để cho ông ở một ḿnh
hết, luôn luôn sợ ông có ngoại t́nh.
Thường thường bà chạy lại
nhà một bà chị để phàn nàn về
chồng, trút hết tâm sự, khóc la, đe
dọa. Có lắm lần bà đạp
cửa vô thư viện của ông để
chửi ông nữa. Cho nên, làm chủ mười
hai ṭa cung điện lộng lẫy mà Nă Phá
Luân đệ tam không có lấy một cái
tủ để trốn trong đó cho yên thân
được.
Rồi sau xảy ra sao?
Đoạn văn bản này trích trong
cuốn sách thú vị của E. A.
Rheinhardt 'Nă Phá Luân và Eugénie: bi hài kịch
của một đế chính' trả lời
câu hỏi đó:
'Như vậy, rốt cuộc Nă Phá Luân có
ngoại t́nh thiệt và ông luôn luôn lén lút
ra khỏi cung, đội chiếc nón nỉ kéo
sụp xuống che mắt, có độc
một người hầu cận theo sau,
để đi tới nơi hẹn ḥ
với một giai nhân... nếu không phải,
như hồi c̣n hàn vi, để đi lang
thang trong kinh đô, vơ vẩn dạo chơi
trong những con đường mà các vị
Hoàng đế chỉ được nghe
tả trong sách...'.
Đó, cách cư xử của bà Eugénie đem
tới kết quả như vậy đó.
Đành rằng bà vẫn luôn luôn là Hoàng
hậu nước Pháp. Đành rằng bà là
người đẹp nhất thế
giới. Nhưng khốn nạn thay, cả
chức Hoàng hậu và sắc đẹp
đó không đủ văn cứu t́nh yêu
bị ngạt trong không khí đầy
chất độc, v́ những cuộc
bất ḥa đó.
Phải, Eugénie cũng có thể kêu Trời
như Job 'Ghét của nào, Trời trao của
đó'. Trời trao ư? Không đâu. Chính bà
đă tự đem trút nó lên đầu bà v́
cái máu ghen và những lời đay nghiến
của bà. Đành hanh, nhiếc móc, dày ṿ,
thứ khí giới tai hại nhất mà Diêm Vương
đặt ra để tiêu diệt t́nh yêu.
Khí giới đó chắc chắn có hiệu
quả hơn hết cũng như nọc
rắn hổ vậy, không ai thoát khỏi
chết.
Bá tước phu nhân Tolstoi t́m thấy chân lư
đó - nhưng trễ quá. Lúc lâm chung, bà thú
với con gái bà rằng: 'Chính má đă làm
cho ba các con chết'. Con gái bà không biết
trả lời ra sao, sa lệ. V́ biết
rằng quá đúng như vậy: ông Tolstoi
chết v́ bà đầu độc đời
ông bằng những lời đay nghiến
cay chua không ngớt, những cuộc xung
khắc bất tận.
Mà cặp vợ chồng đó có đủ
những điều kiện của hạnh phúc.
Tolstoi là một văn sĩ nổi danh
nhất hoàn cầu. Ngoài vinh quang đó ra, ông
bà lại giàu sang, có địa vị quan
trọng trong xă hội và có nhiều con. Không
bao giờ một cuộc hôn nhân trổ bông
dưới nền trời tươi sáng hơn
nữa. Mới đầu, hạnh phúc
của ông bà đầy đủ quá, hoàn toàn
quá, đến nỗi có khi cả hai đều
quỳ gối, cầu xin Thượng đế
ǵn giữ họ trong cảnh thần tiên
đó.
Rồi th́ một sự lạ lùng xảy ra.
Lần đầu Tolstoi biến đổi tính
nết, thành một người khác hẳn.
Ông xấu hổ về những danh tác ông
đă viết, và bắt đầu từ lúc
đó ông miệt mài viết những bài
thuyết giáo về ḥa b́nh và kêu gọi
diệt trừ chiến tranh và khổ cực
cho nhân loại.
Ông thú rằng hồi thiếu thời, ông
đă mắc những tội lỗi không
thể tưởng tượng được,
cả tội giết người nữa và
để chuộc tội, ông nhất định
theo đúng giáo lư Cơ Đốc. Ông phân
phát hết thảy những của cải
của ông và thề sống trong cảnh nghèo.
Ông làm lụng ngoài đồng, chặt cây,
phơi cỏ, đóng lấy giày, quét
lấy pḥng, ăn trong đĩa bằng
gỗ, ráng yêu cả những kẻ thù ông.
Đời của ông là một bi kịch, mà
như vậy chỉ do hôn nhân của ông. Bà
ưa xa hoa, ông th́ ghét. Bà ham danh vọng, thích
được tôn trọng, thích giao du, mà ông
lại không màng ǵ tới những thú
tầm phào đó. Bà đ̣i có nhiều vàng,
sống một cuộc đời sang
trọng, c̣n ông th́ cho giàu có là một
tội lỗi.
Trong nhiều năm, bà đay nghiến ông,
thịnh nộ với ông, mạt sát ông, v́
ông in sách cho không, không đ̣i quyền tác
giả, mà bà th́ không muốn bỏ những
món tiền đó.
Khi ông chống lại th́ bà phát cơn động
kinh, lăn trên mặt đất, ngậm
ở môi một ve thuốc phiện, thề
sẽ tự tử hay dọa sẽ đâm
đầu xuống giếng.
Có một chi tiết mà tôi cho là vô cùng thương
tâm trong đời của ông bà. Như tôi
đă nói, lúc mới cưới, cuộc t́nh
duyên đó thiệt đẹp đẽ,
vậy mà 48 năm sau, ông Tolstoi đến
nỗi hễ trông thấy mặt bà là
chịu không nổi... Có khi, buổi tối,
bà già cô đơn đó thèm khát t́nh thương,
lại quỳ bên ông và xin ông đọc cho
nghe những đoạn dịu dàng cảm
động, mà ông viết vô nhật kư để
tặng bà, 50 năm trước.
Và khi ông đọc, sống lại những
ngày tươi sáng rực rỡ, bây giờ
đă tan như mây khói, cả hai đều
rơi lệ. Than ôi! Thực trạng khác xa
những mơ mộng thiếu thời
một cách độc địa làm sao!
Sau cùng, năm 82 tuổi, Tolstoi không chịu
nổi sự bất ḥa ghê gớm trong gia
đ́nh nữa và một buổi tối, tháng
10 năm 1910, tuyết sa đầy trời ông
trốn bà, đi xa, trong đêm tối và
lạnh lẽo, không biết là đi về
đâu.
Mười một ngày sau, ông đau phổi
mà chết tại một nhà ga. Lời
cầu xin cuối cùng của ông là đừng
để ông thấy mặt vợ ông.
Đó, bà Tolstoi phải chuộc những cơn
giận, lời dọa nạt, lời trách móc
với cái giá đó.
Có lẽ độc giả tự nhủ
rằng có nhiều chỗ bà phàn nàn cũng
đáng. Phải. Nhưng vấn đề không
phải ở đó. Vấn đề ở
chỗ này: bà phàn nàn có ích ǵ cho bà không?
Hay là, trái lại, chỉ làm cho t́nh thế
đă tệ hại c̣n tệ hại thêm
nhiều?
Khi trễ quá rồi, bà mới tự thú: 'Tôi
tin chắc rằng hồi đó tôi điên'.
Bi kịch thảm thương nhất trong
đời Lincoln cũng là cuộc hôn nhân
của ông. Tôi nói rơ: không phải là vụ
ám sát ông mà là cuộc hôn nhân của ông.
Khi tên Booth hạ sát ông bằng một viên
đạn, ông không hay rằng người ta
mới bắn ông, nhưng trong 23 năm
trời, gần như mỗi ngày, ông
được nếm 'những trái cây chua chát
của một duyên nợ đau khổ' như
lời ông Herdon, người bạn ông đă
nói.
Thiệt vậy, trong gần một phần tư
thế kỷ, bà Lincoln rút dần mạch
sống của đời ông bằng cách khích
bác, gây lộn, giày ṿ, đay nghiến ông.
Bà luôn luôn day dứt, đay nghiến
rằng ông chẳng được vẻ ǵ:
nào là lưng th́ gù, chân đi th́ kéo lê như
thằng mọi, dáng điệu cứng như
que củi, gai mắt lạ lùng.
Bà nhại dáng đi của ông rồi
nghiến răng hỏi ông sao không bắt chước
dáng đi lịch sự của bà?
Bà oán cả hai tai ông, vừa rộng vừa
vểnh ra như tai voi. Bà chê ông mũi
lệch, bà chê môi dưới ông trề ra, bà
chê ông có vẻ ốm đói; tay chân lớn
quá mà đầu th́ nhỏ quá!
Hai ông bà trái ngược nhau về đủ
mọi phương diện: giáo dục, tính
t́nh, thị hiếu. Chọi nhau hoài...
Một sử gia thông thạo nhất về
đời sống Tổng thống Lincoln có
viết: 'Giọng nói the thé của bà Lincoln,
ở ngoài đường cũng nghe
thấy, và những cơn thịnh nộ
của bà th́ điếc tai hàng xóm. Mà không
phải khi bà giận dữ, chỉ la hét mà
thôi đâu, bà c̣n làm hung nữa, có nhiều
chứng cớ không chối căi được'.
Chẳng hạn, sau khi cưới, ông bà
lại trọ nhà bà Farly, vợ góa một lương
y, có nấu cơm tháng.
Một hôm lúc điểm tâm, ông Lincoln có
một cử chỉ hoặc thốt một
lời làm cho bà nổi giận. Không ai
nhớ ông đă làm ǵ, nhưng người
ta thấy bà Lincoln trong lúc cơn điên lên
đến cực điểm, liệng
một tách cà phê nóng vào mặt chồng,
ngay lúc đông đủ các khách trọ khác.
Lincoln xấu hổ lắm, làm thinh ngồi trơ
trên ghế trong khi bà chủ trọ đem
chiếc khăn mặt ướt
lại chùi má và quần áo ông.
Ḷng ghen của bà Lincoln vô lư dữ tợn, và
không thể tưởng tượng
được, đến nỗi chỉ
cần đọc những đoạn tả
những cơn giận dữ, bi thảm làm
cho ông mất mặt trước công chúng,
phải, chỉ cần đọc những
đoạn đó, 75 năm sau, cũng c̣n
thấy kinh tởm rùng ḿnh.
Sau cùng, bà hóa điên. Người ta cho
rằng tánh hạnh bà như vậy; bởi
v́ bà mắc bệnh thần kinh. Không thể
có lời nào nhân từ hơn để xét
bà nữa.
Bây giờ ta hăy tự hỏi: Những cơn
thịnh nộ đó, những lời đay
nghiến đó, cái lối bù lu bù loa đó
có cải thiện ông Lincoln chút nào không?
Một ngàn lần không. Nó chỉ giết
hết t́nh cảm của ông đối
với bà, nó làm cho ông suốt đời
hối hận rằng đă cưới bà và
chỉ muốn có mỗi một hành vi là
đi khỏi nhà cho khuất mắt.
Tại tỉnh Springfield, là nơi gia đ́nh
Lincoln ở, có 11 ông luật sư. V́ đông
quá, không thể kiếm ăn trong tỉnh
đó được, họ phải đi
ngựa từ tỉnh lỵ này qua tỉnh
lỵ khác, theo sau ông ṭa David Davis để căi
trong những lúc ông này xử án khắp trong
miền. Nhưng trong khi bạn đồng
nghiệp của ông Lincoln cứ cuối
tuần lại trở về gia đ́nh th́ ông
Lincoln không muốn về, v́ rất kinh
tởm sự ở gần bà vợ. Và trong
ba tháng hè và ba tháng thu, ông ở xa biệt,
không lai văng gần miền Springfield.
Như vậy trong nhiều năm. Đời
sống trong những quán trọ nhà quê đó
không vui thú, cũng không đủ tiện
nghi; nhưng sống như vậy, ông c̣n thích
hơn là về nhà để thấy bà
Lincoln với những cơn tam bành, lục
tặc của bà ấy.
Hành vi của bà Lincoln, Hoàng hậu Eugénie và
Bá tước phu nhân Tolstoi có những
kết quả như vậy. Chỉ mang
lại bất hạnh cho gia đ́nh và
diệt hết nguồn ân ái mà mấy bà quư
hóa nhất.
Sau khi bàn căi trong 11 năm ở 'Ṭa chuyên
xử các vụ lôi thôi trong gia đ́nh ở
Nữu Ước' và nghiên cứu cả ngàn
vụ chồng bỏ nhà ra đi, bà luật
sư Bessie Hamburger tuyên bố rằng đàn
ông phải trốn vợ v́ họ chán nghe
vợ rầy rà, gây gổ. Như một văn
sĩ đă nói: 'Đàn bà đào huyệt chôn
hạnh phúc gia đ́nh bằng nanh vuốt
của họ'.
Vậy, thưa quư bà, nếu quư bà muốn
giữ sự vui vẻ ḥa nhă trong gia đ́nh,
xin quư bà theo lời khuyên dưới đây:
Đừng day dứt đay nghiến
chồng!
|
Tùy
Ngộ Nhi An
Disraeli nói: 'Tôi có thể làm nhiều
chuyện điên lắm, nhưng có
một việc mà tôi sẽ không bao
giờ làm cưới vợ v́ t́nh'.
Và ông giữ lời. ở độc
thân tới hồi 35, rồi cưới
một người đàn bà giàu, góa,
hơn ông 15 tuổi, một bà góa tóc
đă bạc v́ 50 cái xuân xanh! Bà
biết rơ rằng Disraeli cưới bà
không phải v́ t́nh, mà v́ tiền. Cho nên
bà chỉ nhận lời với một
điều kiện là cho bà đợi
một năm để có đủ th́
giờ xét tính t́nh ông. Hết hạn
một năm, bà ưng.
Cuộc t́nh duyên đó chẳng nên thơ
chút nào hết mà c̣n có vẻ mua bán
nữa, phải không bạn? Vậy mà
lại là một cuộc t́nh duyên sung sướng
nhất trong những trang giông tố
của hôn nhân niên giám.
Bà góa và giàu đó, đă không
trẻ, không đẹp, cũng
chẳng tài hoa ǵ. Trái lại, trong câu
chuyện của bà, bà thường
lầm lộn buồn cười
về sử kư hay văn học sử.
Chẳng hạn, bà không biết dân Hy
Lạp thịnh trước hay dân La Mă
thịnh trước. Quần áo th́
lố lăng mà nhà cửa bày biện
mới tai hại làm sao! Nhưng cách bà
cư xử với chồng, th́
thật là tuyệt diệu và đó là
điều kiện cốt yếu để
gây và nuôi hạnh phúc trong gia đ́nh.
Bà không bao giờ tranh khôn với
chồng. Khi ông về nhà, sau cả
một buổi chiều mệt mỏi v́
ứng đối xă giao với các công
tước phu nhân linh mẫn, ông nghe bà
chuyện tṛ ngây thơ mà óc được
nghỉ ngơi. Lần lần gia đ́nh
của ông thành một nơi thần tiên,
v́ nơi đó là nơi ông thảnh thơi
dưỡng sức trong sự chiều
chuộng âu yếm của vợ.
Những giờ sống bên cạnh bà
vợ đứng tuổi đó là
những giờ êm đềm nhất
trong đời ông.
Bà là tri kỷ của ông, vừa là
bạn đồng tâm, là nguồn an
ủi và là quân sư của ông
nữa. Mỗi buổi tối ở
Nghị viện ra, ông vội về nhà
để cho bà biết những tin
tức hôm đó. Và điều này quan
trọng nhất, dù ông lập tâm thi hành
bất cứ công cuộc ǵ, không bao
giờ bà nghi rằng ông có thể
thất bại được.
Trong 30 năm, ông là lẽ sống độc
nhất của bà. Bà quư của cải
của bà, chỉ v́ của đó làm
cho đời sống của người
bà yêu được dễ chịu hơn.
Đáp lại t́nh đó, ông t́m
hết cách làm đẹp ḷng bà. Ông
khẩn khoản xin Nữ hoàng Anh
Victoria phong tước cho bà và v́
vậy, năm 1868, bà được
sắc phong nữ bá tước.
Dù bà có lầm lỗi ǵ đi nữa,
ông cũng không bao giờ chỉ trích bà,
không bao giờ trách bà nửa lời, và
nếu ai cả gan chế giễu bà th́
ông chồm lên để bênh vực bà
một cách chân thành dữ tợn.
Bà Disraeli không phải là một người
hoàn toàn nhưng trong 30 năm, bà không
ngớt nói về chồng bà, khen
ngợi, ngưỡng mộ ông.
Kết quả? Ông Disraeli thích nhắc
lại lời này lắm: 'Trong 30 năm
sống chung không bao giờ tôi thấy
buồn chán v́ vợ hết'. (Vậy mà
nhiều người dám cho rằng bà
đần độn v́ không thuộc
sử kư!).
C̣n ông th́ vẫn thường nói
với mọi người rằng bà là
nhân vật quan trọng nhất trong
đời ông. Kết quả ra sao? Bà
khoe nhiều lần với bạn bè
rằng: 'Nhờ ḷng âu yếm của
nhà tôi mà đời tôi là một
chuỗi dài hạnh phúc'.
Trong lúc vắng, ông bà thường nói
đùa nhau. Ông nói:
'Ḿnh, anh cưới ḿnh chỉ v́
của cải ḿnh thôi...'.
Và bà, mỉm cười, đáp:
'Phải, nhưng bây giờ, giá có cưới
lại th́ ḿnh sẽ cưới em v́ t́nh
phải không?'.
Ông chịu nhận rằng lời đó
đúng.
Bà chẳng hoàn toàn chút nào. Đúng. Nhưng
ông Disraeli đă khôn ngoan mà chịu an
phận.
Henry James nói: 'Quy tắc thứ nhất
phải áp dụng trong sự giao
thiệp với mọi người là
để cho họ được sung sướng
v́ theo quan niệm của họ'.
Văn sĩ Lelend Foster Wood cũng nói
gần đúng như vậy: 'Muốn có
hạnh phúc trong gia đ́nh, kiếm
một người bạn trăm năm
lư tưởng không cần mấy, mà
cần thứ nhất là phải chính ḿnh
là một người bạn trăm năm
lư tưởng đă'.
Vậy muốn có hạnh phúc gia đ́nh,
quy tắc thứ hai là:
'Bạn trăm năm của ta ra sao, ta
chịu làm vậy, đừng có ư
sửa đổi làm chi.'
|
Thương
nhau chín bỏ làm mười
Kẻ thù dữ tợn nhất về chính
trị của Disraeli là Gladstone. Cả hai
đều trái ngược nhau về mọi
phương diện, nhưng có chỗ này
giống nhau: Hạnh phúc hoàn toàn trong gia
đ́nh.
William và Catherine Gladstone sống chung với
nhau 59 năm, lúc nào cũng quyến luyến
nhau. Tôi thích tưởng tượng cảnh
Gladstone, cụ Thượng nghiêm trang nhất
của nước Anh, mà cầm tay vợ,
nhảy múa với bà trước ḷ sưởi,
ca:
Chồng rách rưới, vợ lang thang
Buồn vui tranh đấu trên đàng cùng
nhau.
Gladstone, về chính trị, là một kẻ
thù ghê gớm cho phe đối lập, nhưng
ở trong nhà, ông không bao giờ khiển trách
ai hết. Sáng dậy, ông xuống nhà dưới,
thấy pḥng ăn vắng ngắt v́ cả
nhà c̣n ngủ, ông ca một điệu bí
mật, luôn luôn một điệu đó,
để nhắc rằng người bận
việc nhất ở nước Anh ngồi
ở nhà dưới một ḿnh, đợi
người ta dọn điểm tâm cho ông.
Rất khôn khéo và lễ phép, ông không bao
giờ chỉ trích việc nhà cửa
hết.
Đó cũng là thuật mà Nga hoàng Catherine dùng
Bà trị v́ một đế quốc lớn
nhất thế giới từ cổ tới
kim, có quyền sinh sát cả triệu thần
dân, và cầm quyền một cách độc
ác và độc đoán, làm phí biết bao
sinh mạng trong những chiến tranh vô ích và
đem bắn cả trăm kẻ thù, không thương
hại chút chi hết. Nhưng, khi v́ rủi
ro, người bếp làm cháy món thịt quay
th́ bà đă không phàn nàn, c̣n vui vẻ tha
thứ mà ăn. Những đức lang quân
ở Mỹ nên noi gương bà.
Dorothy Dix mà ai cũng phải công nhận
rằng rất thâm hiểu những vấn
đề về hôn nhân, nói rằng: 'Già
nửa những cuộc hôn nhân đă
thất bại lớn'. Bà nói thêm: 'Biết
bao chiếc thuyền t́nh chở đầy hy
vọng mà sau cùng phải tan tành dưới
chân mỏm đá bến Reno, chỉ do cái thói
vô ích và tai hại vợ chồng chỉ trích
lẫn nhau'.
Vậy, muốn giữ hạnh phúc trong gia
đ́nh xin bạn nhớ quy tắc thứ ba:
Đừng
chỉ trích
Bạn có khi muốn rầy cháu nhỏ.
Bạn tưởng tôi sẽ khuyên bạn 'Không
nên' sao? Thưa không! Tôi chỉ khuyên bạn
điều này. Trước khi rầy nó, xin
bạn đọc bức thư sau này của
văn sĩ Livingstone Larnod. Bức thư đó
ông viết cho con ông và đă làm cho hết
thảy những người đọc rung
động tơ ḷng đến nỗi
được hàng trăm tạp chí và
nhật báo đăng lại, được
đài vô tuyến điện truyền thanh
biết bao lần và được dịch
ra không biết bao nhiêu thứ tiếng. Nhan
đề đoạn đó là: 'Làm cha nên
nhớ...'. Thiệt là một cha thú tội
với con, âu yếm cảm động và thân
mật!
'Con ơi!... con ngủ, má đỏ kề trên
tay, tóc mây dính trên trán. Cha mới lén vào pḥng
con... Cha muốn thú tội với con: lúc năy
trong khi cha đọc báo bên phong sách, đợt
sóng hối hận xâm chiếm tâm hồn cha.
Cha đă hỏi nghiêm khắc với con hôm
nay. Sáng ngày, trong khi con sửa soạn sách
vở đi học, cha đă rầy con v́ con
chỉ quệt chiếc khăn ướt lên
đầu mũi con thoi, cha đă mắng con
v́ giày con không đánh bóng, cha đă la khi con
liệng đồ chơi của con xuống
đất.
Trong lúc điểm tâm cha lại khiển trách
con nữa: con đánh đổ sữa, con
nuốt vội mà không nhai, con t́ khuỷu tay
lên bàn, con phết bơ lên bánh nhiều quá...
Khi ra đi, con quay lại và chào cha: 'Thưa
cha, con đi!'. Và cha đă cau mày: 'Ngay người
lên!'.
Buổi tối, vẫn điệu đó.
ở sở về, cha ŕnh con ở ngoài
đường. Con chơi bi, đầu
gối quỳ lên cát, vớ rách hở
cả thịt ra. Cha đă làm nhục con trước
bạn bè, v́ bắt con đi trước
mặt cha cho tới nhà... 'Vớ đắt
tiền, nếu mày có phải bỏ tiền
ra mua, mày mới tiếc của mà giữ ǵn
nó!'. (Con thử tưởng tượng, có
ai, cha mà mắng con như vậy không?).
Rồi con nhớ không? Tối đến,
trong khi cha đọc sách, con rón rén vào pḥng
giấy cha, vẻ đau khổ lắm. Cha
ngửng lên, giọng bất b́nh hỏi: 'Cái
ǵ?'.
Con không trả lời chi hết, nhưng trong
một lúc xúc động không chống
lại được, con chạy lại cha,
bá cổ cha, ôm cha với t́nh sùng bái cảm
động mà Trời Phật đă làm
nảy nở trong ḷng con, mà sự lạnh lùng
của cha không làm cho héo được...
Rồi th́ con chạy lên cầu thang.
Này con, chính lúc đó cuốn sách ở tay
cha rớt xuống và một nỗi sợ ghê
gớm xâm chiếm cha. Cái thói hay chỉ trích,
trách mắng đă làm cho cha thành như
vậy đó, thành một người cha
gắt gỏng. Cha đă phạt con v́ con c̣n
con nít mà cha bắt con làm như người
lớn.
Không phải cha không thương con đâu,
nhưng cha đă đ̣i hỏi ở tuổi
thơ của con nhiều quá, cha đă xét con
theo tuổi nhiều kinh nghiệm của cha.
Mà tâm hồn con đại lượng, cao thượng,
trung trực biết bao! Trái tim nhỏ của
con mênh mông như b́nh minh ló sau rặng đồi.
Chỉ một sự hăm hở tự nhiên
lại hôn cha trước khi đi ngủ,
đủ chứng điều đó.
Thôi, cha con ḿnh quên hết những chuyện
khác đi... Tối nay cha hối hận
lắm, lại ngồi nép bên giường
con.
Cha biết nếu con có nghe được
những lời cha thú với con đây th́
con cũng chẳng hiểu chi. Nhưng, ngày
mai, con sẽ thấy, cha sẽ thiệt là
một người cha; cha sẽ là bạn
của con, con cười cha sẽ cười,
con khóc cha sẽ khóc. Và nếu cha có muốn
rầy con th́ cha sẽ mím chặt môi, và
sẽ lặp đi lặp lại, như trong
kinh:
- Con chỉ là một đứa nhỏ...
một đứa nhỏ!
Cha có lỗi. Cha đă coi con như người
lớn. Bây giờ nh́n con nằm trong giường
nhỏ của con, mỏi mệt, trơ
trọi, cha biết rơ rằng con chỉ là
một em bé.
Mới hôm qua, con c̣n nằm trong tay mẹ,
ngả đầu trên vai mẹ con... Cha đă
đ̣i hỏi con nhiều quá... Nhiều quá
lắm...'.
Làm
cho người ở chung quanh ḿnh được
sung sướng
Làm cho người ở chung quanh ḿnh
được sung sướng là điều
dễ dàng
Bạn có biết câu chuyện lạ lùng này
không? Sau ngày dài làm lụng khó nhọc,
một mụ chủ trại dọn cho
những người giúp việc một đống
cỏ khô thay bữa chiều. Những người
này bất b́nh, hỏi lại mụ có
phải mụ điên không, th́ mụ trả
lời: 'Làm sao ta biết được
rằng các chú phân biệt được
thức ăn với cỏ? V́ trong suốt 20
năm nay ta nấu ăn cho mấy chú,
mấy chú có bao giờ cho ta hay rằng món các
chú ăn đó không phải là cỏ khô
đâu?'.
Ngày xưa, các nhà quư phái ở Moscou và Saint
Pétersbourg lịch thiệp hơn. Sau một
bữa tiệc nấu khéo, các ông thường
cho gọi người làm bếp vô pḥng
ăn để khen ngợi họ.
Sao đối với bạn trăm năm
của bạn, bạn không biết v́ nể
như vậy? Lần sau, nếu món gà chiên
vừa ăn, bạn nên nói cho bà nhà hay, cho bà
biết rằng bạn biết thưởng
thức món bà làm; bạn nên tỏ ra
rằng 'món bạn ăn đó không phải
là cỏ khô', và luôn tiện bạn đừng
nên tiếc lời, mà nên thêm cho bà biết là
bà rất cần cho hạnh phúc của
bạn.
Disraeli, một trong những nhà cầm
quyền quan trọng nhất bên Anh, thích tuyên
bố cho mọi người hay rằng ông
mang ơn bà vợ bé nhỏ của ông
rất nhiều.
Tuần trước, đọc qua một
tạp chí, tôi thấy một bài phỏng
vấn kép hát bóng Eddie Cantor. Chàng nói:
''Tôi được nhờ nhà tôi nhiều hơn
là được nhờ những người
khác. Khi tôi c̣n nhỏ, nhà tôi là bạn
thiết của tôi, dắt dẫn tôi trên con
đường chính. Sau khi cưới, nhà tôi
cần kiệm từng đồng và làm
ăn cho vốn tôi sinh sôi nảy nở. Chính
nhà tôi đă gây dựng nên cơ nghiệp
của chúng tôi. Nàng sinh được năm
đứa con ngộ nghĩnh và gia đ́nh chúng
tôi như một tổ uyên ương.
Nếu tôi đă thành công được chút
nào, toàn là do công của nàng vậy'.
ở Hollywood, kinh đô hát bóng, những
cuộc t́nh duyên thật bấp bênh, đến
nỗi Công ty bảo hiểm Lloyds ở Luân
Đôn phải 'chạy'... Vậy mà có
một cặp rất sung sướng: là
vợ chồng kép hát Warner Baxter. Nàng bỏ
tiền đồ rực rỡ trên sân
khấu để yên chữ vu quy.
Nhưng không bao giờ tiếc sự hy sinh
đó hết, v́ như lời chàng nói
với chúng tôi: 'Nhà tôi không được
khán giả vỗ tay khen nữa, nhưng đă
có những lời khen ngợi của tôi bù
lại. Sự tôn trọng, sùng bái của
chồng, làm cho vợ sung sướng. Và
nếu vợ sung sướng th́ đáp
lại, chồng cũng đáp lại
được vợ làm sung sướng'.
Đó, muốn có hạnh phúc trong gia đ́nh
th́ quy tắc thứ tư là:
Ta phải biết khen tài đức người
bạn trăm năm của ta.
Cái
ǵ làm cảm động một người
đàn bà
Từ đời thái cổ, loài hoa vẫn
được dùng để tỏ ḷng yêu
đương. Bông có mắc ǵ đâu,
nhất là lúc giữa mùa. Người ta bán
cả ở đầu đường.
Vậy mà thấy mấy ông chồng vào
hạng trung lưu, bủn xỉn không dám mua
biếu bà vợ, người ta tưởng
bông mắc lắm, mắc hơn lan tố tâm,
lan bạch ngọc, hoặc loài mẫu tử
hảo mọc trên ngọn núi Alpes.
Tại sao lại đợi cho bà nhà vào
nằm trong nhà thương mới mua bông
tặng bà? Tại sao không tặng bà vài bông
hồng ngay tối nay? Bạn là người
ưa thí nghiệm. Th́ đây, bạn hăy theo
tôi mà thí nghiệm đi, rồi cho tôi hay.
Ông Cohan công việc bề bộn là như
vậy mà không ngày nào quên, sáng một
lần, chiều một lần, gọi điện
thoại hỏi thăm tin tức mẹ.
Mà bạn tưởng mỗi lần ông đều
có tin quan hệ cần cho bà cụ biết
sao? Không! Ông chỉ muốn tỏ cho bà
cụ biết rằng lúc nào ông cũng
nhớ tới mẹ, cũng chỉ t́m cách làm
vui ḷng mẹ, và hạnh phúc với sức
khỏe của cụ vô cùng quan trọng
đối với ông.
ư nghĩa của những cử chỉ
nhỏ nhặt đó sâu xa tới như
vậy.
Đàn bà trong ngày sinh nhật và những ngày
kỷ niệm vui tươi của họ
lắm. Một người đàn ông có
thể sống suốt đời không
cần nhớ những niên nguyệt nhật
quan trọng, trừ bốn niên nguyệt
nhật sau này: 1492, năm kiếm được
châu Mỹ; 1776, năm Mỹ quốc tuyên
bố độc lập; ngày sinh tháng đẻ
của vợ và ngày tháng cưới. Cùng
lắm th́ có thể quên được hai năm
trên, c̣n hai ngày tháng dưới th́ không bao
giờ, không bao giờ được quên.
Một ông ṭa ở ṭa án Chicago đă xử
bốn vạn vụ ly dị và ḥa giải
được 2000 vụ, tuyên bố: 'Nguyên
nhân những vụ ly dị phần nhiều
là những chuyện lặt vặt. Có khi
chỉ cần ông chồng buổi sáng, khi
đi làm, giơ tay lên chào vợ một cái
cũng đủ làm cho cái hố giữa
họ khỏi mỗi ngày một sâu'.
Robert Browning mà cuộc hôn nhân với Elizabeth
Barrett có lẽ mặn mà nhất chưa
từng thấy, trong đời luôn luôn
dụng tâm giữ lửa thiêng của ái t́nh.
Ông săn sóc nâng niu, kính trọng bà vợ
tật nguyền một cách luyến ái và
tế nhị đến nỗi bà phải
viết câu này cho một người chị:
'Em bắt đầu tin rằng có lẽ em
thiệt là một nàng tiên như lời nhà
em thường nói'.
Đời vợ chồng, hết ngày này qua
ngày khác, chỉ là một chuỗi những
tiểu tiết không nên thơ. Nhưng trong
những tiểu tiết đó, ta phải
giữ một thái độ phong nhă th́
mới có hạnh phúc trong gia đ́nh
được.
Tại tỉnh Reno, kinh đô của ly
dị, người ta xử những vụ ly
dị không ngừng, từ đầu năm
đến cuối năm, mỗi tuần sáu
ngày, mỗi giờ sáu vụ, nghĩa là mười
phút một vụ. Trong những cuộc t́nh
duyên bất hạnh đó, có bao nhiêu
cuộc rẽ thúy chia loan, v́ những bi
kịch hẳn ḥi? Tôi cam đoan là ít
lắm. Nếu bạn được dự
những phiên ṭa đó, nếu bạn nghe
được cả trăm những lời
chứng của những cặp vợ
chồng xấu số đó, bạn sẽ
thấy giá trị của những tiểu
tiết trong đời vợ chồng.
Đàn ông luôn luôn phải nhận rằng
đàn bà gắng sức tô điểm nhan
sắc lắm. Mà ta lại quên điều
đó, có khi không biết tới nữa.
Bạn coi hai cặp gặp nhau ngoài đường:
hai người đàn ông họ chỉ ngó
nhau thôi, c̣n hai người đàn bà th́
ngắm nghía tỉ mỉ quần áo, trang
sức của nhau.
Bà tôi mất, cách đây vài năm, hồi
cụ 98 tuổi. ít tháng trước khi quy tiên,
cụ cho chúng tôi coi một tấm h́nh
chụp ba chục năm về trước.
Mắt ḷa, cụ không trông rơ h́nh, nhưng câu
hỏi độc nhất của cụ là:
'Trong h́nh bà bận áo ǵ, cháu?'. Đó,
một bà cụ bệnh tật, đội
nặng cả một thế kỷ trên mái tóc
bạc phơ, trí nhớ th́ lu mờ mau đến
nỗi chính con gái cụ mà cụ không
nhận ra được nữa, vậy mà c̣n
chú ư đến chiếc áo như vậy
đó!
Các độc giả tu mi đọc những
hàng này không c̣n nhớ một chút ǵ về
những bộ đồ và những áo sơ
mi bận cách đây 5 năm, mà cũng
chẳng thích nhớ tới làm chi... nhưng
các bà về phương diện đó th́ khác
hẳn và các đức lang quân, xin nhớ
kỹ điều đó cho.
Xin bạn lấy kéo cắt những hàng tôi
chép lại sau này, rồi dán vô trong nón
hoặc trong gương, ở nơi nào mà
mỗi buổi sáng, khi rửa mặt, bạn
trông thấy liền.
'Tôi không đi lại hai lần con đường
đời. Vậy tất cả việc
thiện hay nỗi vui mừng mà tôi có
thể mang lại cho đồng bào tôi, tôi
phải làm ngay từ bây giờ. Không có ǵ làm
cho tôi xao nhăng hoặc làm chậm trễ công
việc đó được; v́ cơ
hội sẽ không tái hiện nữa'.
Vậy muốn có hạnh phúc trong gia đ́nh:
'Xin nâng niu, săn sóc bạn trăm năm
của bạn'.
Phu
phụ tương kính như tân
Hai vợ chồng nhạc sĩ trứ danh
Walter Damrosch là một trong những cặp uyên
ương sung sướng nhất. Bí
quyết của họ ư?
Chính bà Samrosch cho ta biết bí quyết như
sau này:
''Trước khi cưới, sự lựa
chọn kỹ càng bạn trăm năm là
một điều quan trọng nhất. Nhưng
khi cưới rồi, điều cần
nhất là đăi nhau như khách quư. Nếu
những bà vợ trẻ biết trọng
chồng như khách quư th́ vui vẻ biết
bao nhiêu!... Đàn ông bao giờ cũng
muốn lánh mặt một người đàn
bà gắt gỏng...'
Sự thiếu lịch sự giết chết
ái t́nh. Ai cũng biết điều đó,
vậy mà chúng ta lễ phép với người
dưng hơn là với người thân trong
nhà.
Không bao giờ chúng ta dám nghĩ tới
chuyện ngắt lời một ông khách sơ
giao và bảo ông:
'Trời đất! Xin ông đừng kể
câu chuyện cũ mèm đó ra nữa!'. Không
bao giờ chúng ta dám mở thư của
họ để coi lén, hoặc năn nỉ
họ cho ta biết những việc kín
của họ. Nhưng chúng ta lại rất
thường xử như vậy với
những người gần ta nhất, thương
yêu ta nhất.
Dorothy Dix c̣n nói: 'Sự thực hiển nhiên
nhất, nhưng ngược đời
nhất, chính là chỉ có người trong nhà,
thân cận nhất mới nói với ta
những lời nhỏ mọn, tục
tằn, độc ác nhất'.
Một văn sĩ nói: 'Biết phép lịch
sự nghĩa là biết vượt tầm
con mắt đừng thèm ngó bức hàng rào
đổ nát trước mặt, mà ngắm
những bông hoa nở trong vườn phía sau
hàng rào đó'.
Phép lịch sự cần thiết cho hôn nhân
cũng như nhớt cần cho máy chạy.
Tôi biết một tiểu thuyết gia
rất sợ làm phiền ḷng những người
thân, đến nỗi không dám để
lộ ra nét mặt, những t́nh cảm
của ông khi ông âu sầu, lo lắng. Ông nói:
'Bắt người nhà chịu sự rầu
rĩ, càu nhàu của ḿnh có ích chi đâu?
Than ôi! Hạng trung nhân không hành động
như vậy. Họ lo cho việc làm ăn
ư, bị chủ rầy ư, khó ở
ư, lỡ xe ư, th́ mới về tới
cửa, họ đă quát tháo rồi.
Người Ḥa Lan, trước khi vô nhà,
phải cởi giày ra, để ở bực
cửa. Sao chúng ta chẳng theo họ, cởi
nỗi buồn phiền của ta ở sau cánh
cửa rồi hăy vô nhà chúng ta?
Biết bao người trong bọn chúng ta, không
dám lớn tiếng với một khách hàng,
một bạn đồng nghiệp, mà cho
sự réo vợ một cách hách dịch tàn
nhẫn là một điều tự nhiên. Mà
hạnh phúc của chúng ta tùy sự êm
ấm trong gia đ́nh nhiều hơn sự thành
công trong việc làm nhiều lắm.
Một người trung b́nh được
vui vẻ trong gia đ́nh c̣n sướng
gấp trăm một vị thiên tài phải
sống cảnh cô độc. Tourgueniev là
một đại văn sĩ Nga, thế
giới đều biết danh. Vậy mà ông
nói: 'Tôi sẽ đổi hết cả tài
nghệ, tác phẩm của tôi để
được cái êm đềm biết
rằng, tại một nơi nào đó, có
một người đàn bà lo âu v́ tôi
về trễ bữa'.
Xét kỹ, ta có nhiều hy vọng xây
hạnh phúc trong gia đ́nh không?
Paul Popenoe cho rằng: 'Ta có nhiều hy vọng
thành công trong một hôn nhân hơn là trong
một kinh dinh khác'.
Ví dụ 100 nhà buôn bán đồ thực
phẩm th́ có 70 nhà vỡ nợ, trong 100 gia
đ́nh th́ có 70 gia đ́nh được
vừa ḷng. Nhưng Dorothy Dix nghĩ khác. Bà
cho rằng già nửa những cuộc t́nh duyên
đều bất hạnh và kết luận
như sau này:
'Hôn nhân là việc quan trọng nhất trong
đời, quan trọng hơn cả sinh và
tử'.
Đàn bà luôn luôn tự hỏi tại sao
chồng họ không chịu gắng sức làm
cho gia đ́nh được sung sướng
hơn là gắng sức thành công trong
nghề nghiệp hoặc thương măi.
Một người đàn bà được
vừa ḷng, một gia đ́nh ḥa hợp,
cần thiết cho hạnh phúc của đàn
ông hơn là một gia tài cả triệu
bạc. Nhưng trăm người đàn ông
th́ không có đến một người
chịu gắng sức thành công trong hôn nhân.
Việc quan trọng nhất trong đời th́
lại phó cho may rủi. Và đàn bà không
hiểu được tại sao đàn ông
không đối đăi với ḿnh một cách
lịch sự, khôn khéo để được
lợi cho họ.
Mà đàn ông lại thừa biết rằng
người vợ được chiều
chuộng khéo léo sẽ làm mọi việc, hy
sinh mọi thứ cho chồng vui. Chỉ vài
lời khen giản dị đủ cho thành
một người tề gia giỏi nhất,
cần kiệm nhất. Nếu chồng
bảo vợ chiếc áo bạn năm ngoái
vừa vặn và đẹp lắm, th́
vợ sẽ không khi nào muốn đổi
chiếc áo đó lấy một chiếc áo
đúng mốt tân thời nhất ở Paris.
Sau cùng, nếu biết vuốt ve chiều
chuộng vợ th́ bảo sao vợ nghe
vậy, không căi lại nửa lời, và có
muốn bịt mắt họ cũng được
nữa.
Phải, đàn ông biết tất cả
những điều đó. Đàn bà biết
rằng đàn ông biết những điều
đó. Đàn bà đă chẳng cho đàn ông
biết tất cả những bí mật
của ḿnh ư? Chẳng chỉ cho đàn ông
biết cách dẫn dụ ḿnh sao?
Cho nên khi thấy đàn ông thích quạu
quọ, gây lộn, để rồi phải
chịu cảnh cơm chẳng lành, canh
chẳng ngọt, cửa nhà tan hoang, hơn là
chịu nghe lời năn nỉ của ḿnh mà
chiều chuộng ḿnh một chút, đối
đăi với ḿnh cho ḿnh vui ḷng một chút,
th́ đàn bà tức tối vô cùng, và
hết sức tức tối th́ đến
thất vọng!'.
Vậy muốn cho gia đ́nh được
êm ấm, th́ quy tắc thứ sáu là:
'Bạn nên lịch sự và có lễ độ
với người bạn trăm năm
của bạn'.
Những
kẻ thất học trong hôn nhân
Sở vệ sinh chung có lần gửi cho
cả ngàn người đàn bà có chồng
một tờ giấy câu hỏi về đời
sống thân mật của họ và xin họ
trả lời rất thành thật và tất
nhiên là có giấu tên.
Kết quả cuộc điều tra đó là
một sự tiết lộ bất ngờ
về đời sống đau thương
trong những cuộc ái ân của họ. Sau
khi nghiên cứu tất cả những câu
trả lời, một bác sĩ đề xướng
cuộc điều tra đó, không ngần
ngại ǵ tuyên bố trên báo rằng ông tin
chắc phần nhiều những vụ ly
dị do sự lỗi nhịp trong cuộc mây
mưa.
Một bác sĩ khác, ông G.V. Hamilton công
nhận ư kiến mới mẻ đó. Trong 4
năm, ông ḍ xét đời sống giữa
vợ chồng của 200 người, 100 người
đàn ông và 100 người đàn bà. Ông
đă hỏi họ khoảng 400 câu hỏi, và
được hiểu rơ những bí ẩn
trong hôn nhân. Những t́m ṭi đó quan
trọng về phương diện xă hội
đến nỗi một số bác sĩ có tên
tuổi bỏ tiền ra giúp ông. Kết
quả của sự nghiên cứu đó chép
trong một cuốn nhan đề là 'Nguyên do
của bất ḥa trong gia đ́nh' do ông G.V.
Hamilton và ông Keneth Macgowan viết.
'Chỉ có một y sĩ chữa bệnh
thần kinh có những quan niệm lạ lùng
mới dám nhận rằng nguyên nhân chính
của bất ḥa trong gia đ́nh là sự
bất ḥa về t́nh dục. Mà, cũng
phải nhận rằng những bất ḥa do
những nguyên nhân khác có thể dịu
bớt đi được nếu vợ
chồng được thỏa măn trong lúc ái
ân'.
C̣n theo bác sĩ Popenoe, một trong những nhà
thông hiểu nhiều nhất về hôn nhân,
th́ những nguyên nhân chính của sự
bất ḥa đó, phần nhiều là:
1. Thiếu ḥa hợp trong lúc ái ân.
2. ư kiến khác nhau về cách tiêu khiển.
3. Tài chánh khó khăn
4. Tính t́nh hoặc thể chất khác thường.
Bạn nên để ư rằng vấn đề
ái ân đứng đầu, và trái với
điều người ta thường tưởng
những khó khăn về tiền bạc quan
trọng hạng ba.
Tất cả những người am hiểu
vấn đề đều đồng thanh
nhận rằng cần phải có sự ḥa
hợp trong lúc ái ân. Ông Ṭa Hoffman ở ṭa
án Cincinnati, đă nghiên cứu cả ngàn
thảm kịch trong gia đ́nh cách đây vài
năm có tuyên bố: 'Mười vụ ly
dị th́ có tới chín do thiếu sự ḥa
hợp trong lúc ái ân'.
Trong những lớp học của tôi, đă
được nghe vài y sĩ công nhận
lời đó. Cho nên, ở thế kỷ
thứ 20 này, thế kỷ của khoa học
và của phát minh, mà c̣n thấy biết bao
gia đ́nh khuynh bại, biết bao cuộc
đời tan nát, chỉ do người ta không
biết những luật nó điều
khiển một bản năng tự nhiên
nhất, thâm áo nhất, th́ bạn có
thấy se ḷng hay không?
Mục sư Butlerffield ở Nữu Ước,
một vị đă cầu phúc cho nhiều
cuộc hôn nhân hơn những vị mục
khác, tuyên bố:
'Ngay từ khi mới làm mục sư, tôi
đă hiểu rằng, rất nhiều
cặp uyên ương dắt nhau tới bàn
thờ, có một ái t́nh chân thành, những
hảo ư rất đáng khen, nhưng lại là
những kẻ 'thất học trong hôn nhân' mà
thôi.
Những kẻ thất học trong hôn nhân
Và ông tiếp: 'Khi người ta nghĩ
rằng một vấn đề rất
tế nhị và khó khăn, tức là vấn
đề làm cho những cuộc ái ân
được ḥa hợp, mà lại phần
nhiều cứ để cho may rủi
giải quyết, th́ người ta phải
lấy làm kinh dị rằng những vụ
ly dị lại ít như vậy, không quá 16
phần trăm.
Có một số rất lớn vợ
chồng mà thiệt ra không phải là vợ
chồng. Họ sống bên nhau, như để
trả một cái nợ tiền kiếp cho
nhau vậy.
Có rất ít những cuộc hôn nhân nhờ
may rủi mà được hạnh phúc.
Muốn có hạnh phúc, nó phải được
xây dựng trên một nền tảng đă
nghiên cứu một cách thông minh và khoa
học, cũng như một ngôi nhà khéo
cất vậy.
Sự thỏa măn về nhục dục
chỉ là một trong nhiều những thú
của hôn nhân; nhưng thiếu điều
kiện đó th́ cả ṭa hạnh phúc
sẽ sập đổ.
Sự ngu muội, hay nói cho đúng hơn,
một sự hiểu sai lầm về
những vấn đề đó phải
được phá tan đi để thay vào
một giáo dục thích hợp, để cho
những cặp vợ chồng sau này (và
hiện tại nữa) có thể xét phương
diện t́nh dục trong đời sống
chung của họ bằng một cách khách
quan, ngay thẳng và khoa học'.
Vậy, muốn tăng hạnh phúc trong gia
đ́nh, quy tắc thứ 7 là:
Nghiên cứu cho kỹ một cuốn
'Ái T́nh Cẩm Nang' hoàn toàn nhất
|
|
|