|
Thảm họa của một đoàn
thám hiểm – “Bệnh dịch thiếc” – Tṛ
đùa của mùa đông Nga – Những cái cúc
bị mất – Mọi tội lỗi là tại các
mụ phù thuỷ – Các nguyên tử được
sắp xếp hơi thoải mái hơn –
“Vacxin” chống “bệnh dịch” – Tiếng
kêu của thiếc.
Năm 1910, nhà khảo sát địa cực người
Anh, thuyền trưởng Rôbec Xcot đă trang
bị cho một đoàn thám hiểm có nhiệm
vụ đi đến Nam cực, nơi mà
thời bấy giờ con người chưa đặt
chân đến. Những vị du khách quả
cảm này đă trải qua nhiều tháng ngày gian
nan trên hoang mạc băng tuyết của lục
địa Nam cực, họ c̣n để lại
trên đường đi của ḿnh những kho
nho nhỏ chứa thực phẩm và dầu
hoả dự trữ cho đường trở
về.
Cuối cùng, đầu năm 1912, đoàn thám
hiểm đă đến Nam cực, nhưng
thật là mất hết hứng khởi, v́ Xcot
đă phát hiện ra một ḍng chữ ghi
lại: th́ ra trước đó một tháng, nhà
thám hiểm Ruan Amunxen (Roald Amundsen) người Na
Uy đă đến đây rồi. Song, tai họa
chủ yếu đă chờ đợi Xcot trên
đường trở về. Ngay tại kho
trạm đầu tiên đă không c̣n dầu
hoả nữa: các hộp sắt tây đựng
dầu đă rỗng không. Những con người
mệt mỏi, lạnh cóng và đói khát ấy
không có ǵ để sưởi ấm, để
nấu thức ăn. Vất vả lắm, họ
mới lê bước được đến
trạm tiếp theo, và ở đây cũng
những cái hộp rỗng đă chờ đón
họ: tất cả dầu hoả đều
chảy hết. Không đủ sức chống
đỡ với giá rét địa cực và
những cơn băo tuyết dữ dội đang
hoành hành ở Nam cực lúc đó, nên chẳng
bao lâu, Rôbec Xcot và các chiến hữu của ông
đă lần lượt bỏ mạng.
Vậy do đâu mà dầu hoả biến mất
một cách bí hiểm như vậy ? Tại sao
cuộc thám hiểm đă được trù tính
kỹ càng lại phải kết thúc một cách
bị thảm như vậy ?
Nguyên nhân thật đơn giản. Các hộp
đựng dầu hoả bằng sắt tây đă
được hàn bằng thiếc. Có lẽ các
nhà thám hiểm đă không biết rằng, trong băng
giá, thiếc bị “cảm lạnh”: lúc đầu
thứ kim loại màu trắng lấp lánh này
biến thành kim loại màu xám xịt, sau đó
th́ mủn ra thành bột. Hiện tượng này
được gọi là “bệnh dịch
của thiếc” và nó đă đóng vai tṛ định
mệnh trong số phận của đoàn thám
hiểm.
Từ lâu trước khi xảy ra sự kiện
vừa kể, người ta đă biết
rằng, thiếc rất dễ “mắc
bệnh” khi bị lạnh. Ngay từ thời
trung cổ, những người dùng bát đĩa
bằng thiếc đă nhận thấy rằng,
khi gặp lạnh, chúng sẽ bị bao phủ
bởi những vết “lở loét” lan rộng
dần và cuối cùng bát đĩa biến thành
bột. Thêm vào đó, đĩa thiếc bị
cảm lạnh chỉ cần chạm vào chiếc
khác c̣n “khoẻ mạnh” th́ chẳng mấy
chốc, chiếc “khoẻ mạnh” cũng
bị các vết xám xịt bao phủ rồi
mủn ra.
Cuối thế kỷ trước, môt đoàn tàu
hoả chở những thỏi thiếc đă
khởi hành từ Hà Lan sang Nga. Khi đến Maxcơva,
người ta mở các toa tàu ra th́ thấy trong
đó toàn là thứ bột xám chẳng dùng
được vào việc ǵ cả. Mùa đông
ở nước Nga đă “chơi khăm” môt
vố độc ác với những người
nhận thiếc.
Cũng vào khoảng những năm đó, một
đoàn thám hiểm được trang bị
tốt đă đến Xibia. H́nh như mọi
thứ đă được dự liệu để
cho băng giá vùng Xibia không cản chở đến
công việc tốt đẹp của đoàn. Nhưng
các nhà thám hiểm vẫn phạm một sai sót:
họ đă mang theo bát đĩa bằng
thiếc, nên chỉ sau một thời gian
ngắn, tất cả chúng đều bị
hỏng. Thế là đành phải đẽo th́a
và bát bằng gỗ để thay thế. Sau
đó, đoàn thám hiểm mới có thể
tiếp tục cuộc hành tŕnh của ḿnh.
Đầu thế kỷ XX, tại kho quân khu
ở Petecbua đă xảy ra một chuyện
rất tai tiếng: trong cuộc kiểm tra viên sĩ
quan hậu cần đă phát hiện thấy là
những chiếc cúc bằng thiếc dùng cho quân
phục của các binh lính đă biến mất
hết, các ḥm đựng các loại cúc này th́
đầy ắp một thứ bột xám.
Mặc dầu trong kho rét buốt ghê người
nhưng viên sĩ quan hậu cần khốn
khổ vẫn toán hết mồ hôi. Tất nhiên,
anh ta sẽ bị nghi là ăn cắp, mà điều
đó th́ chẳng hứa hẹn ǵ khác ngoài h́nh
phạt khổ sai. Song kết luận của pḥng
thí nghiệm hoá học – nơi mà thứ
bột trong các ḥm được gửi đến
để xét nghiệm, đă cứu con người
tội nghiệp này: “Không phải nghi ngờ ǵ
nữa, thứ bột mà các ngài gửi đến
để phân tích chính là thiếc. Rơ ràng là
trong trường hợp này đă xảy ra
một hiện tượng mà hoá học gọi là
“bệnh dịch của thiếc” .
Vậy th́ sự biến đổi như vậy
của thiếc đă diễn ra như thế nào
? Thời trung cổ, bọn thầy tu dốt nát
cho rằng, “bệnh dịch của thiếc” là
do những lời nguyền rủa của các
mụ phù thuỷ gây ra, chính v́ vậy nên
nhiều người đàn bà không có tội t́nh
ǵ đă bị thiêu sống trên đống
lửa “trừ tà”. Với sự phát triển
của khoa học, tính vô căn cứ của
điều khẳng định như vậy là
quá rơ ràng, nhưng suốt một thời gian dài,
các nhà bác học vẫn không thể t́m
được nguyên nhân thật sự của
“bệnh dịch thiếc”.
Chỉ sau khi phép phân tích bằng tia rơngen giúp
các nhà kim loại học nh́n nhận thấu
tận tâm can và xác định được
cấu trúc tinh thể của các kim loại,
họ mới hoàn toàn minh oan cho các “mụ phù
thuỷ” và nêu lên cách lư giải khoa học
thực sự về hiện tượng bí
ẩn này. Th́ ra thiếc (cũng như các kim
loại khác) có thể có các dạng tinh thể
khác nhau. Ở nhiệt độ b́nh thường
hoặc cao hơn th́ thiếc trắng – một
kim loại dẻo và dai, là biến thể bền
vững nhất. Khi nhiệt độ xuống dưới
13 độ C, mạng tinh thể của thiếc
được thay đổi lại để cho
các nguyên tử bố trí trong không gian ít đặc
sít hơn. Biến thể mới h́nh thành trong trường
hợp này được gọi là thiếc xám;
thiếc xám không c̣n các tính chất kim loại
nữa và trở thành một chất bán dẫn.
Ứng suất bên trong xuất hiện ở
những chỗ tiếp giáp của các mạng
tinh thể khác nhau làm cho thiếc bị rạn
nứt và biến thành bột. Nhiệt độ
xung quanh càng thấp th́ sự chuyển hoá từ
biến thể này sang biến thể kia diễn
ra càng nhanh. Ở nhiệt độ – 33 độ
C, tốc độ chuyển hoá này đạt
tới trị số lớn nhất. Bởi
vậy, những cơn giá rét khủng khiếp
đă trừng phạt các đồ vật
bằng thiếc một cách tàn nhẫn và nhanh chóng
đến thế.
Tuy vậy, chính thiếc lại được
sử dụng rộng răi để hàn các khí
cụ vô tuyến điện, nhất là các khí
cụ bán dẫn, để mạ các dây dẫn
và các chi tiết khác; thiếc vẫn c̣n đi
với chúng đến cả Bắc cực
lẫn Nam cực và những nơi lạnh
lẽo khác trên hành tinh của chúng ta . Thế có
nghĩa là tất cả các khí cụ mà trong
đó có sử dụng thiếc đều
rất chóng hỏng hay sao? Tất nhiên là không. Các
nhà bác học đă biết cách “tiêm
chủng” cho thiếc, tạo cho kim loại này tính
miễn dịch đối với “bệnh
dịch thiếc”. Chẳng hạn, bimut là
thứ “vacxin” thích hợp nhất cho mục
đích này. Bằng cách cung cấp các điện
tử bổ xung cho mạng tinh thể của
thiếc, các nguyên tử bimut làm cho trạng thái
của thiếc được ổn định,
hoàn toàn loại trừ được khả năng
“nhiễm bệnh”.
Thiếc nguyên chất có một tính chất đáng
chú ư : khi uốn cong một thỏi hoặc
một tấm thiếc, ta nghe thấy tiếng tí
tách khe khẽ - đó là “tiếng kêu của thép”.
Dấu hiệu đặc trưng này xuất
hiện do sự cọ xát lẫn nhau giữa các
tinh thể thiếc khi chúng bị xê dịch và
biến dạng. C̣n các hợp kim của thiếc
với các kim loại khác th́ trong t́nh huống như
vậy, như người ta thường nói, chúng
lại biết “giữ mồm giữ
miệng”.
Không có kẻ cạnh tranh – Bí quyết của
người Xaxonia – Các hộp sắt tây trong
bể tắm – Số phận của chú lính
thiếc – Hefet trang bị cho Asin – “Cô bé Mary
có ...” – Nhiệt độ cao ư? – Cứng
hay mềm? – Tiền của người Aztec –
Iuli Txeza có thể xác nhận – Nhà vua xử
không đúng.
Hiện nay, gần một nửa lượng
thiếc khai thác được trên thế
giới được sử dụng vào việc
sản xuất sắt tây – thứ sắt
chủ yếu dùng để làm vỏ đồ
hộp. Ở đây, những phẩm chất quư
giá của kim loại này đă được
bộc lộ đầy đủ: nó bền
vững đối với oxi, nước, các axit
hữu cơ; đồng thời, các muối
của nó lại hoàn toàn không độc hại
đối với cơ thể con ngườ.
Thiếc đảm đương nhiệm vụ
này một cách tuyệt vời và trên thực
tế th́ không có kim loại nào cạnh tranh
nổi với nó. Không phải ngẫu nhiên mà người
ta gọi thiếc là “kim loại của đồ
hộp”. Nhờ một lá thiếc cực kỳ
mỏng phủ lên lá sắt, chúng ta có thể
bảo quản khá lâu hàng triệu tấn
thịt, cá, rau, quả, bơ , sữa.
Trước đây, để tráng một lớp
thiếc người ta dùng phương pháp
nhiệt, trong đó, lá sắt đă tẩy
rửa sạch và khử hết dầu mỡ
được nhúng vào thiếc nóng chảy. C̣n
nếu cần mạ thiếc cho bề mặt
của một lá sắt th́ người ta tẩy
rửa mặt đó thật sạch, đốt
nóng lên rồi sát thiếc vào. Ngày nay, phương
pháp đó đă lỗi thời, phương pháp
mạ bằng điện trong bể mạ đă
thay thế nó.
Lịch sử kỹ thuật đă từng
biết đến một trường hợp
về t́nh báo công nghiệp có liên quan với
việc sản xuất sắt tây. Ở nửa
cuối thế kỷ XVII, nước Anh vốn
có cả sắt lẫn thiếc nhưng vẫn
phải mua sắt tây, v́ những người
chế tạo sắt không biết bí quyết
của việc sản xuất thứ sắt
trắng này. Trước đó hơn một trăm
năm, các nhà luyện kim ở công quốc Xaxonia
đă biết cách mạ thiếc lên các lá
sắt mỏng và sản phẩm của họ
đă đi đến nhiều nước. Năm
1665, một vị nào đó mang tên Enđri Oaranton
(Amđrew Warrington) đă được giao
nhiệm vụ khám phá bí mật về nghề
này của người Đức. Mấy năm
sau, người này đă mô tả “chuyến
công cán sáng tạo” của ḿnh trong bài luận
văn “Các phương pháp cố thủ của
nước Anh ở trên cạn và trên biển”
như sau: “Người ta đă dành cho tôi
một khoản tiền khá dư dật để
trang trải các chi phí trên đường du hành
đến nơi làm ra những lá sắt
trắng. Từ nơi đó, tôi phải mang
về được nghệ thuật của
việc sản xuất thứ sắt này”.
Cuộc viếng thăm xứ Xaxonia đă thu
được kết quả, và chẳng bao lâu
sau, các nhà công nghiệp của nước Anh
đă có thể phô trương thứ sắt
trắng tuyệt vời do chính họ sản
xuất ra.
Nhưng chúng ta hăy thử h́nh dung ba thế kỷ
nữa và thử tưởng tượng một
quả núi gồm hàng trăm tỷ cái vỏ
hộp được sản xuất hàng năm
ở tất cả các nước trên thế
giới trong thời đại chúng ta. Bên
cạch quả núi đồ hộp được
dựng lên bằng trí tưởng tượng
này, núi khồng lồ Everet trông chẳng khác ǵ
một quả đồi tầm thường.
Sớm hay muộn th́ các hộp sắt tây
rỗng cũng sẽ rơi vào đống rác,
song thiếc (mà trong mỗi vỏ hộp có
chừng nửa gam) th́ không đành ḷng chịu
chôn vùi ở đây măi măi: con người đang
t́m cách lấy lại thứ kim loại quư báu
này để sử dụng lại nó cho các nhu
cầu của ḿnh.
Những chiếc hộp sắt tây được
thu nhặt lại rồi được đưa
đến một thiết bị đặc
biệt; ở đó, dưới tác động
của các chất kiềm và của ḍng điện,
sắt buộc phải cởi bỏ áo bằng
thiếc ra. Sắt lá đă được
tẩy sạch và những thỏi thiếc sáng
ngời đi ra từ “bể tắm” đặc
biệt này sẵn sàng trở lại thành vỏ
đồ hộp.
Một đặc điểm nổi bật
của thiếc là nó rất dễ nóng chảy.
Hẳn bạn c̣n nhớ trong truyện cổ tích
của Hanxơ Khrittia Anđecxen (Hans Christian
Andersen), chú lính thiếc kiên cường phút
chốc đă tan biến trong lửa khi chú bị
rơi vào ḷ do một ư nghĩa độc ác.
Nhờ có nhiệt độ tương đối
thấp, nên thiếc rất có tiếng tăm như
một thành phần chủ yếu của các
chất hàn và các hợp kim dễ nóng chảy.
Một điều kỳ thú là hợp kim của
thiếc (16 %) với bimut (52 %) và ch́ (32 %) có
thể nóng chảy ngay cả trong nước sôi:
nhiệt độ nóng chảy của hợp kim
này chỉ là 95 độ C, trong khi đó, các kim
loại hợp thành nó đều nóng chảy
ở nhiệt độ cao hơn nhiều :
thiếc ở 232 độ C, bimut ở 271 độ
C, c̣n ch́ ở 327 độ C. Các hợp kim trong
đó thiếc là chất phụ thêm cho gali và inđi
lại c̣n dễ chuyển sang trạng thái
lỏng hơn nữa. Thậm chí c̣n có loại
hợp kim nóng chảy ngay ở 3 độ C.
Những hợp kim kiểu như vậy được
sử dụng trong kỹ thuật điện
để làm cầu ch́.
Những tính chất rất tốt như dễ
đúc, dễ rèn, có màu trắng đẹp như
bạc đă mở cửa đưa thiếc vào
nghệ thuật trang trí thực dụng. Ngay
ở Ai Cập và Hy Lạp cổ đại, người
ta đă dung thiếc để làm các h́nh trang
trí gắn lên các kim loại khác. Trong thiên anh
hùng ca “Iliat”, Homer kể rằng, sau khi rèn xong
tấm lá chắn cho người anh hùng Asin,
vị thần của lửa và của nghề
thợ rèn là Hefet đă gắn lên đó một
h́nh trang trí bằng thiếc. Sau đó rất
lâu, vào khoảng thế kỷ XIII, những
thứ đĩa, cốc, chén, đồ thờ
và những đồ dùng khác bằng thiếc có
h́nh chạm nổi đă xuất hiện ở
châu Âu.
Thiếc là một trong những thứ vật
liệu được dùng làm các ống phát ra
âm thanh trong đại phong cầm: người ta
cho rằng, kim loại này phát ra âm thanh hùng tráng
và trong trẻo. Có một ḍng khác trong tiểu
sử của thiếc có liên quan với âm thanh: năm
1877, nhà phát minh nổi tiếng người
Mỹ Tomat Anva Eđixơn (Alva Edison) nhờ
chiếc máy ghi âm do ông chế tạo đă
lần đầu tiên ghi được lời
nói trên một là thiếc mỏng có phủ
một lớp sáp, sau đó ông đă phát lại
những lời này – những lời đă đi
vào lịch sử của kỹ thuật ghi âm:
“Cô Mary bé nhỏ có một chú cừu non”.
Từ thời cổ xưa, thiếc đă là
một thành phần quan trọng trong các loại
đồng đỏ khác nhau, trong các hợp kim
làm chữ in và hợp kim babit (hợp kim để
làm bi có khả năng chống mài ṃn, do nhà phát
minh người Mỹ tên là Babit sáng chế năm
1839).
Rất nhiều hợp chất hoá học của
thiếc được sử dụng rộng răi
trong kỹ thuật. Chúng được sử
dụng làm chất cầm màu khi nhuộm vải
bông và tơ lụa, làm cho đồ sứ và
thuỷ tinh có màu đỏ, làm chất nhuộm
màu vàng và khi cần th́ tạo ra một màn khói
dày đặc. Các hợp chất hữu cơ
của thiếc làm cho vải dễ ráo nước,
ngăn chặn được sự mục nát
của gỗ, tiêu diệt được một
số loài sâu bọ. Nhưng trong tất cả
các hợp chất của thiếc, có lẽ
loại hợp chất stanua là được
biết đến nhiều nhất trong kỹ
thuật ; hợp chất này chuyển sang
trạng thái siêu dẫn ở nhiệt độ
không thấp lắm : nếu đa số các kim
loại, các hợp kim và các chất chỉ
mất điện trở ở nhiệt độ
gần độ không tuyệt đối, th́
niobi stanua chuyển sang trạng thái siêu dẫn
(không có điện trở) ngay ở 18 K (hoặc
– 255 độ C).
Từ nhiều thế kỷ xa xưa, con người
đă biết đến thiếc. Ban đầu,
thiếc chỉ được sử dụng trong
hợp kim với đồng : hợp kim của
hai kim loại này được gọi là đồng
đỏ đă được biết đến
từ rất lâu trước công nguyên. Các công
cụ bằng đồng đỏ cứng hơn
và bền hơn hẳn bằng đồng. Có
lẽ v́ thế mà tên La tinh của thiếc là
“stannum” bắt nguồn từ tiếng Phạn
“sta”, nghĩa là cứng, bền chắc. C̣n
bản thân thiếc ở dạng nguyên chất
th́ lại là một kim loại mềm, hoàn toàn
không xứng đáng với tên gọi của
ḿnh. thời gian đă hợp pháp hoá điều
nghịch lư lịch sử này, và các nhà luyện
kim ngày nay dễ dàng gia công thiếc mềm
dẻo mà không ngờ rằng họ đang động
chạm đến một thứ kim loại
“cứng”.
Khi khai quật các ngôi mộ được chôn
cách đây khoảng sau ngàn năm, người ta
đă t́m thấy một số sản phẩm
bằng đồng đỏ. Nói về gương,
Plini Bố đă khẳng định rằng
“những tấm gương được làm
ở Brunđizi bằng hỗn hợp của
đồng và thiếc là loại gương
tốt nhất trong các loại mà tổ tiên chúng
ta biết đến”.
Thật khó mà xác định chính xác cái thời
mà xă hội loài người bắt đầu
sử dụng thiếc ở dạng nguyên
chất. Trong một ngôi mộ cổ Ai Cập
thuộc triều vua thứ XVIII (giữa thiên niên
kỷ thứ nhất trước công nguyên), người
ta đă t́m thấy một chiếc nhẫn và
một cái chai bằng thiếc; những vật
này được coi là những đồ
vật bằng thiếc cổ nhất. Trong các
tác phẩm của nhà sử học cổ Hy
Lạp Herođot (thế kỷ V trước công
nguyên) cũng có những chỗ nói đến
việc mạ thiếc để giữ cho
sắt khỏi gỉ.
Tại một thành luỹ cổ của người
Inka (một bộ tộc da đỏ ở châu
Mỹ) ở Pêru, các nhà bác học đă t́m
thấy thiếc nguyên chất; có lẽ nó
được dùng để nấu đồng
đỏ: dân cư trong thành luỹ này vốn
nổi tiếng là những nhà luyện kim
xuất sắc và là những người thợ
khéo léo trong việc chế tác các tác phẩm
bằng đồng đỏ. Có lẽ người
Inka không sử dụng thiếc ở dạng
nguyên chất, v́ trong thành luỹ này không t́m
thấy một đồ vật nào bằng
thiếc cả.
Ernan Cortec (Hernando Cortès) – một tên thực dân
người Tây Ban Nha từng xâm chiếm Mêhicô
hồi đầu thế kỷ XVI, đă
viết: “Đă t́m thấy vài mảng thiếc
nhỏ dưới dạng những đồng
tiền mỏng ở thổ dân tỉnh Tacxco; khi
tiếp tục t́m kiếm, tôi đă phát hiện
ra là ở tỉnh này cũng như nhiều
tỉnh khác, thiếc đă được sử
dụng để làm tiền...”
Giữa những năm 20, ở nước Anh, khi
khai quật cạnh một toà lâu đài cổ
từng được xây dựng hồi thế
kỷ III trước công nguyên, các nhà bác
học đă t́m thấy những hố nung trong
đó có xỉ thiếc. Điều này có nghĩa
là ở đây, nghề luyện thiếc đă
phát triển từ hơn hai ngàn năm về trước.
Ngoài ra, trong cuốn sách “B́nh luận về
cuộc chiến tranh ở xứ Gallia”, Julius
Cesar có nói đến việc sản xuất
thiếc ở một số vùng thuộc nước
Anh.
Năm 1971, người ta đă minh oan cho 94 người
thợ đúc tiền ở nước Anh sau khi
họ đă chết từ lâu. Họ đă
bị kết án trước đó ... 847 năm.
Ngay từ năm 1124, vua Henry I đă trừng
trị những công nhân xưởng đúc
tiền của ḿnh về tội gian lận:
một kẻ nào đó đă tố cáo với
nhà vua rằng, khi đúc tiền bằng bạc,
những người thợ đúc đă pha thêm
vào quá nhiều thiếc. Toà án hoàng gia đă
vội vàng đưa ra một bản án hà
khắc: chặt tay phải c những người
phạm tội; bản án đă được
bọn đao phủ của triều đ́nh
lập tức thi hành ngay. Măi cho đến tám
thế kỷ rưỡi sau, một nhà bác
học ở Oxford đă dùng tia rơngen để
phân tích những đồng tiền oan nghiệt
này và đă đi đến kết luận
dứt khoát : “Những đồng tiền này
chứa rất ít thiếc. Nhà vua đă xử
phạt không đúng”.
Quặng trong “bao b́” – Vật trưng bày khá
nặng - Để cư trú vĩnh viễn –
Các cuộc t́m kiếm ở mũi thánh –
Mẫu chuẩn của thị trường
chứng khoán Luân Đôn – Băng thuỷ tinh –
Bẫy để bắt mặt trời –
Thất bại của “chiến dịch ngân
hàng”.
Từ thời xa xưa, khoáng vật caxiterit (c̣n
gọi là đá thiếc) là nguồn thiếc
chủ yếu. Trước công nguyên rất lâu,
người Phenycia đă phái tàu thuyền của
ḿnh đi lấy thiếc ở xứ Caxiterit xa
xôi (những ḥn đảo nhỏ rất giàu
quặng thiếc, nằm ở phía bắc Đại
Tây Dương, gần quần đảo Anh), sau
này, trung tâm khai thác thiếc của thế
giới đă chuyển về đảo Malaisia.
Toàn bộ lịch sử của nước
Malaisia – nơi mà từ lâu đă nổi
tiếng giầu có về thiếc, đă gắn
liền với kim loại này. Thủ đô
hiện nay của quốc gia này – Kuala Lampua (nghĩa
là “cửa sông đục ngầu”), là một
thành phố đẹp, tương đối
trẻ, ra đời vào nửa cuối thế
kỷ XIX tại nơi mà những người
Trung Hoa đi t́m vàng đă phát hiện ra mỏ
quặng thiết rất lớn. Những ai đă
từng đến Kuala Lampua đều mang từ
đây về những vật lưu niệm
bằng thiếc : lọ cắm hoa, gạt tàn
thuốc lá, chân nến ... do bàn tay khéo léo
của những người thợ Malaisia làm ra.
Nhưng thỉnh thoảng người ta cũng
chở ra khỏi nước này những
“vật lưu niệm” hoàn toàn khác. Điều
đó có thể thấy trong trường hợp
sau đây xảy ra ở biên giới giữa
Malaisia và Xingapo. Hai nước này tiếp giáp
với nhau bằng một con đê đi qua eo
biển Johore. Con đường chạy dọc
thep con đê này luôn luôn chật ních những ô
tô qua lại. Một hôm, một đoàn ô tô kéo
rơmooc chở những chiếc cột bằng
bê tông rất cao đi đến trạm kiểm
soát quá cảnh ở phía Malaisia. Những
chiếc cột này giống hệt như
những chiếc cột thông thường, nhưng
có một cái ǵ đó khiến nhân viên hải
quan cảm thấy khả nghi nên họ đă
quyết định “sờ nắn”. Họ ra
lệnh cho tài xế lái xe sang một bên
đường, và nhờ một chiếc xe
cần cẩu, họ đă nhấc một cái
cột ra khỏi ô tô rồi dùng búa tạ đập
vỡ thành từng đoạn. Cái ǵ vậy ?
Sự nhạy cảm nghề nghiệp đă
không đánh lừa các nhân viên hải quan: trong
mỗi cột bê tông đều có một cái ḥm
bằng kim loại đựng tinh quặng
thiếc – thứ nguyên liệu rất cần cho
các ông chủ nhà máy luyện thiếc ở
Xingapo. Trong “bao b́” bằng bê tông có cả
thảy 127 tấn tinh quặng rất giàu
thiếc. Một lần khác, trong một chiếc
ô tô xitec khổng lồ mà ở đây người
ta gọi là “tầu chở dầu trên
cạn”, thay cho dầu lửa như lời người
lái xe đă khẳng định là tám tấn rưỡi
tinh quặng thiếc buôn lậu.
Ở Liên Xô - tại vùng viễn đông, Zabaican
và Cazăcxtan cũng có trữ lượng
quặng thiếc khá lớn. Tại pḥng bảo
tàng của liên hợp xí nghiệp “Thiếc
viễn đông” ở Uxurixcơ c̣n giữ
được một thể liên tinh caxiterit
hiếm có, nặng gần nửa tạ.
Cách đây không lâu, Liên Xô đă chế tạo
được một khí cụ gọn nhẹ,
xách tay được, dùng vào việc t́m
quặng thiếc bằng cộng hưởng tia
gama. Để xác định hàm lượng
thiếc trong quặng với độ chính xác
đến vài phần vạn, nhà địa
chất được trang bị khí cụ này
chỉ mất vài phút là xong. Giá trị của
khí cụ này c̣n thể hiện ở chỗ là
nó chỉ nhạy cảm với caxiterit, chứ
không để ư đến một khoáng vật
khác cũng chứa thiếc là stanin mà công
nghiệp rất ít quan tâm đến với tư
cách là nguyên liệu để luyện thiếc.
Các nhà khoa học Xô - viết đă có một
phát minh lớn: họ đă xác định
được rằng, có thể dùng flo để
làm chất chỉ thị độc đáo
về sự có mặt của thiếc trong
một vùng địa chất nào đó. Rất
nhiều phép phân tích và thực nghiệm dường
như đă cho phép tái tạo lại bức tranh
về sự tạo thành quặng từng diễn
ra hàng triệu năm về trước. Bây
giờ mới vỡ lẽ ra rằng, ở
những thời kỳ xa xưa, thiếc đă
từng tồn tại dưới dạng một
hợp chất phức trong đó luôn luôn có
mặt flo. Dần dần, thiếc và các hợp
chất của nó lắng đọng lại
rồi tạo nên các mỏ thiếc, c̣n “người
bạn cũ” flo của nó th́ ở lại
gần thân quặng thiếc để “cư
trú” vĩnh viễn. Phát minh này cho phép xác định
được những vùng có khả năng có
quặng thiếc và thậm chí c̣n giúp cho
việc dự báo trữ lượng thiếc.
Các nhà địa chất không những t́m
kiếm caxiterit ở trên cạn mà c̣n t́m cả
dưới nước nữa. Nhiều cuộc
t́m kiếm đă thu được kết
quả tốt : đă phát hiện được
sa khoáng chứa thiếc ở đáy biển
Nhật Bản trong một vùng biển. Nước
vên bờ của các vùng biển thuộc Bắc
Băng Dương như vũng Vanka, mũi Thánh
và một số nơi khác cũng giàu sa khoáng
chứa thiếc. Những người thợ
lặn giúp sức rất nhiều cho những người
đi t́m quặng dưới đáy biển. Và
bản thân các nhà địa chất cũng
phải bổ sung thêm bộ đồ lặn vào
hành trang thông thường của ḿnh, bởi v́
không có nó th́ không thể “lục lọi”
phần thềm mũi Thánh được.
V́ thiếu thiếc nên các nhà bác học và các
kỹ sư luôn luôn phải t́m chất khác để
thay thế. Trong khi đó, kim loại này càng ngày
càng có thêm nhiều lĩnh vực sử dụng
mới. Công ty Mỹ “Ford Motor” đă xây
dựng một nhà máy, tại đó đă sử
dụng một phương pháp độc đáo
đă sản xuất kính cửa sổ thành
dải rộng liên tục. Thuỷ tinh lỏng
từ ḷ đi vào một bể chứa rất
lớn, dài hàng chục mét, ở đây, nó
chảy loang ra theo lớp thiếc nóng chảy. V́
kim loại nóng chảy có bề mặt nhẵn
đến mức lư tưởng, nên khi nguội
và đông cứng trên bề mặt kim loại,
kính cũng hết sức nhẵn và phẳng.
Loại kính như vậy không cần phải mài
nhẵn và đánh bóng, do đó giảm được
nhiều chi phí sản xuất.
Các nhà khoa học Liên Xô đă chế tạo
được một loại kính đặc
biệt dùng làm một thứ “bẫy” độc
đáo để bắt giữ năng lượng
mặt trời. Nh́n bề ngoài th́ nó không khác
ǵ các loại kính thông thường, chỉ có
điều là nó được phủ một
lớp thiếc oxit cực kỳ mỏng. Lớp
màng mà mắt thường không thể nh́n
thấy được này cho ánh sáng mặt
trời xuyên qua chứ không hề cản trở
ǵ cả, nhưng lại không cho phép các tia
nhiệt phản xạ ngược lại.
Loại kính này rất quư đối với các
nhà trồng rau: nhà kính được mặt
trời sưởi ấm cả ngày, nhưng ban
đêm th́ hầu như nhiệt độ
vẫn giữ nguyên, trong khi đó, các loại
kính thông thường th́ dễ dàng làm cho
nhiệt năng phân tán ra ngoài. Trong các nhà kính
loại mới này, các loại cây rau cảm
thấy dễ chịu ngay cả khi nhiệt độ
ngoài trời giảm đến – 10 độ C.
Loại kính có phủ thiếc c̣n được
dùng cho các dụng cụ nung nóng bằng năng lượng
mặt trời để thu nhiệt của thiên
thể này.
Tiểu sử của thiếc sẽ không đầy
đủ nếu không kể đến một
câu chuyện gần như là chuyện trinh thám
có kết thúc may mắn, trong đó kim loại
này đóng vai tṛ không nhỏ.
... Chiến tranh thế giới thứ hai sắp
đến ngày kết thúc. Hiểu được
rằng, tương lai sắp tới sẽ không
hứa hẹn điều ǵ dễ chịu,
bọn cầm quyền quốc gia “độc
lập” Xlovac do Hitle nặn ra hồi năm 1939
trên lănh thổ Tiệp Khắc đă nghĩ
đến chuyện cất giấu một cái ǵ
đó để pḥng ngày mạt vận. Chúng
cảm thấy rằng, đơn giản hơn
hết là cứ tḥ tay móc vàng trong két do công
sức của nhân dân Xlovac làm nên. Nhưng
một nhóm người yêu nước giữ các
chức vụ trọng trách trong ngân hàng đă
quyết không cho chúng làm điều đó.
Một số vàng đă được bí mât
chuyển sang ngân hàng ở Thuỵ Sĩ và
được cất giấu ở đó cho
đến khi chiến tranh v́ lợi ích của nước
Cộng hoà Tiệp Khắc. Những người
du kích đă làm được một phần
việc nào đó. Nhưng một phần số
vàng vẫn đang nằm trong két sắt của
ngân hàng Bratixlava.
Một trong những tên cầm đầu trong
chính phủ bù nh́n đă mật báo với tên
đại sứ Đức ở Bratixlava về
những của quư c̣n nằm trong các tầng
hầm sắt và đă yêu cầu đưa binh
lính để mở một “chiến dịch
ngân hàng” nhằm cướp đoạt vàng.
Thực ra th́ c̣n phải có thêm tên tướng
của quân đội SS làm ban canh ty thứ ba, và
như vậy không c̣n phải nghi ngờ ǵ
về kết quả của vụ cướp bóc
nữa.
Bọn lính SS đă bao vây được toà nhà
ngân hàng, c̣n tên sĩ quan th́ vừa doạ
bắn các nhân viên vừa ra lệnh giao nộp
của quư. Vài phút sau, chúng đă khuân các ḥm
vàng từ các két sắt lên xe tải của
bọn SS. Bọn làm ăn đă xoa tay một
cách phấn khởi mà không ngờ rằng, chúng
đă vớ phải những thỏi “vàng” do
giám đốc xưởng đúc tiền làm
sẵn bằng ... thiếc. C̣n các nhân viên ngân
hàng th́ kiểm tra lại một lần nữa
những ổ khoá của những nơi cất
giấu vàng thật và bắt đầu nóng ḷng
chờ đợi ngày giải phóng đất nước
ḿnh khỏi quân đội Hitler.
|
|