|
Những con ngỗng cảnh giác -
Số phẩn thảm hại của các vị trưởng
thị tộc - Để phục vụ ṭa án giáo
hội - Bí mật của các đạo sĩ Bà
la môn - Những tiếng kêu gào thảm thiết
trên cầu Than thở - Lư lẽ vững chắc
- Tám chục năm dưới nước - “Hành
động tự phát” không được phép
- Những đám mây đen trong thành phố - Trong
băng giá trên đảo Grơnlan.
Ngỗng đă cứu thành La Mă - điều
đó th́ mọi người đă biết
rồi. Những con ngỗng cảnh giác đă
kịp thời phát hiện quân địch đến
gần và lập tức báo tin nguy cấp bằng
những tiếng kêu khản cổ. Lần này, người
La Mă cổ xưa được b́nh an vô sự.
Tuy nhiên, đế chế La Mă về sau vẫn
bị sụp đổ. Vậy th́ cái ǵ là nguyên
nhân sụp đổ đế chế từng hùng
mạnh một thời ấy? V́ lư do ǵ mà đế
chế La Mă bị diệt vong?
“Đế chế La Mă cổ xưa đă
bị đầu độc bằng ch́” -
một số nhà độc chất học người
Mỹ và Canađa đă đi đến kết
luận như vậy. Theo ư kiến của
họ, việc sử dụng đồ đựng
(b́nh, cốc, chén) bằng ch́ và các mỹ
phẩm chứa các hợp chất của ch́
đă dấn đến sự ngộ độc
kinh niên và chết yểu của giới quyền
quư La Mă. Người ta biết rằng, nhiều
hoàng đế từng cai trị đế
chế La Mă trong vài thế kỷ đầu công
nguyên, tức là ở thời kỳ tồn
tại cuối cùng của đế chế này,
đă mắc chứng bệnh tâm thần nào
đó. Tuổi thọ trung b́nh của các ông trưởng
thị tộc ở La Mă thời ấy thường
không quá 25. Những người thuộc các đẳng
cấp thấp nhất th́ bị nhiễm độc
ch́ ở mức độ ít hơn v́ họ không
có cốc chén bằng ch́ đắt tiền và
họ không dùng mỹ phẩm. Nhưng họ cũng
sử dụng ống dẫn nước do
những người nô lệ La Mă làm ra, mà chúng
ta đă biết, các ống đó đều
được làm bằng ch́.
Con người th́ chết dần chết ṃn,
đế chế th́ quặt quẹo. Lẽ
tất nhiên, có lỗi trong đó không phải
chỉ riêng ch́. C̣n có những nguyên nhân sâu xa hơn
- về mặt chính trị, xă hội, kinh tế.
Song dù sao vẫn có một phần sự thật
trong lập luận của các nhà bác học
Mỹ: khi tiến hành khai quật đă phát
hiện thấy là hài cốt của người
La Mă cổ đại chứa một lượng
ch́ lớn.
Tất cả các hợp chất dễ ḥa tan
của ch́ đều độc. Người ta
đă xác định được rằng, nước
mà người La Mă xưa kia đă dùng để
ăn uống có chứa nhiều khí cacbonic. Khi
phản ứng với ch́, nó tao thành ch́ cacbonat
dễ ḥa tan trong nước. Ch́ đi vào cơ
thể người dù với những lượng
rất nhỏ, đều bị giữ lại
trong cơ thể và thay thế dần dần
chất canxi trong xương. Điều đó
dẫn đến chứng bệnh kinh niên.
Nhưng không phải chỉ riêng việc làm cho
đế chế La Mă bị diệt vong, mà c̣n có
những sự việc đen tối khác đè
nặng lên “lương tâm” của ch́. Trong
thời kỳ mà ṭa án giáo hội đang hoàng hành,
các giáo sĩ ḍng tên (Jésuites) đă sử
dụng ch́ nóng chảy làm dụng cụ tra
tấn và hành h́nh. C̣n ở Ấn Độ, ngay
từ đầu thế kỷ XIX, nếu một
người thuộc đẳng cấp thấp hèn
mà cố ư hoặc vô t́nh nghe lỏm kinh kệ
của những người Bà la môn th́ sẽ
bị rót ch́ nóng chảy vào tai (để
bảo vệ quyền lực của ḿnh đối
với dân chúng, bọn đạo sĩ ở
Babilon, Ai Cập, Ân Độ đă giữ
tuyệt mật những kiến thức của ḿnh).
Ở Venezia c̣n giữ được một nhà tù
trung cổ, nơi mà xưa kia đă từng giam
giữ những kẻ phạm tội quốc
sự. Nhà tù này được nối với
một di tích kiến trúc nổi tiếng - Cung
điện của các vị đại thống lănh
- bằng chiếc cầu Than thở. Trên tầng
áp mái nhà tù có những buồng đặc
biệt dưới mái ch́ dành cho những
phạm nhân trọng phạm. Mùa hè, các phạm
nhân bị ngột ngạt v́ nóng bức, mùa
đông th́ bị buốt cóng v́ giá lạnh. C̣n
trên cầu Than thở th́ vẳng nghe những
tiếng kêu thảm thiết …
Từ khi sáng chế ra súng ống, ch́ bắt
đầu được đúc đạn
giết người cho súng lục, súng trường;
ch́ đă trở thành “lư lẽ vững
chắc” nhất trong các cuộc tranh giành
giữa các phe đối địch. Ch́ đă
nhiều lần quyết định cục
diện của những trận đánh lớn cũng
như của những trận ẩu đả côn
đồ lặt vặt.
Người ta có thể mang một ấn tượng
là ngoài tai hại ra th́ chẳng c̣n ai mong đợi
được ǵ ở ch́ nữa; v́ vậy,
nhiệm vụ trước mắt và chủ
yếu của loài người là hoàn toàn
loại trừ thứ kim loại độc ác
đă từng mang lại biết bao tai họa và
đau khổ này. Nhưng v́ lẽ ǵ đó mà người
ta không muốn đi đến sự giải thoát
như vậy, ngược lại, việc sản
xuất ch́ vẫn được mở rộng
không ngừng. Trong số tất cả các kim
loại màu, chỉ có nhôm, đồng và kẽm
là được sản xuất nhiều hơn
ch́. Thế kim loại này có những tác dụng
hữu ích ǵ vậy?
Lịch sử đă từng biết đến
nhiều trường hợp, trong đó, các dân
tộc đă phát động những cuộc
chiến tranh chính nghĩa để giành lại
độc lập và tự do - và trong cuộc
đấu tranh này, ch́ đă giúp đỡ
họ. Để bảo vệ vững chắc
bờ cơi nước ḿnh, không những phải có
thuốc súng trong kho đạn dược mà c̣n
phải có ch́. Bởi vậy, ư nghĩa quân
sự của kim loại này rất to lớn.
Khi sự phát triển của kỹ thuật đă
dẫn đến việc chế tạo ô tô, tàu
ngầm, máy bay, dẫn đến sự xuất
hiện của công nghiệp hóa học và công
nghiệp kỹ thuật điện, th́ đă
xảy ra một sự nhảy vọt hết
sức đột ngột trong việc sản
xuất ch́.
Ngay từ năm 1859, nhà vật lư học Gaxton
Plante (Gaston Plante) người Pháp đă phát minh ra
một nguồn điện hóa học - đó là
ăcquy ch́. Hơn một trăm năm qua, trên
thế giới đă sản xuất một
số lượng rất lớn những khí
cụ đơn giản nhưng bền chắc
để tích lũy năng lượng:
khoảng một phần ba tổng sản lượng
ch́ trên thế giới được dùng vào
việc sản xuất ăcquy. Cách đây không lâu,
những thợ lặn người Anh đă
vớt được một chiếc tàu ngầm
bị đắm từ đầu thế kỷ này
và đă t́m thấy trong đó một bộ
ăcquy ch́. Họ đă rất ngạc nhiên khi
nhận thấy rằng, tuy đă nằm dưới
nước biển tám chục năm không hơn
không kém, thế mà nó vẫn c̣n phát ra điện.
Một dự án độc đáo đă
được đề xuất ở Mỹ:
tại bang Michigan, người ta định
dựng một bộ ăcquy ch́ có kích thước
khổng lồ; nó được giao phó một
sứ mệnh quan trọng: thỏa măn nhu cầu
về điện của cả bang trong những
giờ cao điểm. Bộ ăcquy nặng
gần ba ngàn tấn này sẽ được
nạp điện trong những giờ mà nhu
cầu về điện giảm xuống mức
thấp.
Công nghiệp nhiên liệu là một ngành tiêu
thụ rất nhiều ch́. Trong các động cơ
xăng, phải nén hỗn hợp nhiên liệu trước
khi đốt cháy, và nén càng mạnh th́ động
cơ làm việc càng kinh tế. Nhưng ở
mức độ nén khá cao, hỗn hợp nhiên
liệu sẽ nổ chứ không chờ đến
lúc được đốt cháy. Dĩ nhiên,
lối “hành động tự phát” như
vậy không thể chấp nhận được.
Ch́ tetraetyl đă giúp trừ khử căn
bệnh này. Chỉ cần pha thêm nó vào xăng
với một lượng nhỏ (chưa đến
1 gam 1 lít) là đủ để ngăn chặn
hiện tượng nổ, buộc nhiên liệu
phải cháy đều, mà chủ yếu là cháy
đúng thời điểm cần thiết.
Bởi v́ ch́ tetraetyl rất độc nên xăng
đă được pha chất này thường
được nhuộm màu hồng, màu lục
hoặc màu da cam v. v… (tùy theo nhăn hiệu) để
dễ phân biệt với xăng thường.
Đáng tiếc là các động cơ ô tô phun
ra rất nhiều chất độc theo các
chất khí thải. Các nhà bác học của
viện công nghệ học ở California (nước
Mỹ) đă ước tính rằng, những
đám mây ch́ (như các bạn thấy, lối nói
văn chương “các đám mây ch́” có
cả nghĩa đen nữa đấy) được
tung lên trên bầu trời các thành phố
lớn: trong một năm, chỉ tính trên các
biển và đại dương ở bán cầu
bắc đă có khoảng 50 ngàn tấn ch́ rơi
xuống, mà chủ yếu là do lượng ch́
pha vào xăng gây nên. Đấy mới chỉ là
pha một gam cho một lít thôi đấy! Ngay
cả trong tuyết ở bắc cực cũng
đă t́m thấy ch́ do ô tô thải ra. Lâu nay, các
nhà chuyên môn đang t́m cách thay thế ch́ tetraetyl
và cũng đạt được những
kết quả nào đó trong việc này.
Những số liệu thu được khi phân tích
tuyết trên băng giá ở Grơnlan cũng
rất đáng chú ư. Các mẫu “tuyết đặc”
được lấy ở các tầng khác nhau tương
ứng với một thời kỳ lịch
sử nhất định. Trong các mẫu h́nh thành
ở thế kỷ VIII trước công nguyên,
cứ một kilôgam “tuyết đặc” có chưa
đến 0, 000 000 4 miligam ch́ (con số này
được coi là mức nhiễm ch́ tự nhiên,
mà nguồn chủ yếu là từ những
trận phun trào của núi lửa). Những
mẫu thuộc giữa thế kỷ XVIII (tức
là lúc bắt đầu cuộc cách mạng công
nghiệp) chứa ch́ nhiều gấp hai mươi
lăm lần. Tiếp theo đó bắt đầu
một cuộc “hành quân” thật sự của
nguyên tố này trên đảo Grơnlan: hàm lượng
ch́ trong các mẫu tuyết đặc lấy
ở tầng trên cùng, tức là tầng tương
ứng với thời đại chúng ta, vượt
quá mức tự nhiên đến năm trăm
lần.
Trong tuyết vĩnh cửu ở các khối núi
cao thuộc Châu Âu, hàm lượng ch́ c̣n cao hơn
nữa. Chẳng hạn, trong ṿng một trăm năm
gần đây, hàm lượng ch́ trong tuyết
đặc của sông băng ở vùng núi Tatry Thượng
đă tăng lên khoảng mười lăm
lần. C̣n nếu lấy mốc từ mức hàm
lượng tự nhiên th́ thấy rằng, ở
Tatry Thượng - nơi gần các khu công
nghiệp - mức này đă bị vượt quá
gần hai trăm ngàn lần !
Cách đây chưa lâu lắm, những cây sồi
hàng mấy trăm tuổi mọc ở một công
viên gần trung tâm thu đô Xtôckhôm đă
trở thành đối tượng nghiên cứu
của các nhà bác học Thụy Điển. Th́
ra trong thời gian gần đây, hàm lượng
ch́ trong những cây sồi bốn trăm tuổi
đă tăng vọt lên cùng với sự gia tăng
cường độ vân chuyển bằng ô tô.
Chẳng hạn, nếu ở cuối thế
kỷ trước, trong gỗ của các cây
sồi này chỉ có 0, 000 001 % ch́, th́ đến
giữa thế kỷ XX, “trữ lượng”
ch́ đă tăng gấp đôi, và đến
cuối những năm 70 c̣n tăng lên gấp mười
lần nữa. Ở phía cây hướng về
đường ô tô, hàm lượng ch́ lại càng
cao hơn rất nhiều bởi v́ phía ấy
chịu tác động của khí thải
nhiều hơn
Cột băng - Trong hộp chữ in - Những
bức thư nặng trịch - Tiếng ngân
của pha lê - “Made in Rodos” - Vụ hỏa
hoạn ở cảng Aten - Có phép lạ chăng?
- Tài nghệ của “họa sĩ Pêru” - “Đường”
mà lại độc - Tấn công và pḥng thủ
- Cửa ló sáng “cỡ nhỏ” - T́m thấy dưới
lớp tro.
Tại triển lăm quốc tế “Expo - 75”
được tổ chức trên đảo
Okinaoa (Nhật Bản) có một vật trưng
bày khác thường đă thu hút sự chú ư
của khách tham quan. Đó là một cột băng
cao ba chục mét, được xẻ từ
một núi băng mà tuổi của nó ngót ba ngàn
năm. Các cuộc khảo cứu do các nhà bác
học Nhật Bản, Mỹ và Liên Xô tiến
hành đă cho biết rằng, trong mấy chục
năm gần đây, núi băng này phải
“chứa chấp” một lượng ch́ không
nhỏ - kết quả của sự phát triển
như vũ băo của ngành vận tại ô tô.
Trong kỹ thuật hiện đại, ch́ c̣n có
khá nhiều nghề khác. Chẳng hạn, trong
công nghiệp kỹ thuật điện, kim
loại này được dùng làm vỏ bọc
dây cáp rất bền chắc và khá dẻo dai.
Một lượng ch́ khá lớn được
dùng để làm que hàn. Để bảo vệ
thiết bị khỏi sự ăn ṃn, các nhà
máy hóa chất và các xí nghiệp luyện kim màu,
người ta mạ ch́ (phủ một lớp
ch́ rất mỏng) lên bề mặt bên trong các
buồng và các tháp để sản xuất axit
sunfuric, các ống dẫn, các bể tẩy
rửa và các bể điện phân. Trong nhiều
máy móc và cơ cấu, có thể gặp các
hợp kim để làm bi gồm ch́ và các nguyên
tố khác.
Cần phải kể tỉ mỉ hơn về
một trong các hợp kim của ch́. Cùng với
stibi và thiếc, ch́ đă có mặt trong hợp
kim chữ in để làm ra những con chữ và
những yếu tố khác của bộ chữ in
sách báo. Nhà khai sáng người Đức ở
thế kỷ XVIII Gheorg Crixtop Lictenbec (Georn Christoph
Lichtenberg) đă đánh giá vai tṛ này của ch́
một cách đầy h́nh ảnh. Ông đă
viết: “Thế giới đă được
biến đổi bởi ch́ nhiều hơn là
bởi vàng; ở đây không phải là ch́
từ họng súng mà là ch́ từ bộ chữ
in”.
Nói cho đúng th́ ch́ đă có quan hệ khá
trực tiếp với chữ viết từ lâu,
trước khi nhà sáng chế vĩ đại
Iohan Gutenbec (Johann Gutenberg) người Đức
sử dụng nó để đúc chữ in. Cách
đây chưa lâu lắm, các nhà khảo cổ
học Xô - viết đă t́m thấy trên đảo
Berezan (nằm trong Biển Đen, cạch lối
vào vũng Đniep) một bức thư thời
cổ Hy Lạp trên một tấm ch́ mỏng
được cuộn lại thành một cái
ống. Khi khai quật các phế tích của thành
phố cổ Onvia trên bờ sông Bug cũng đă
phát hiện được một bức thư
nặng trịch như thế. Phương pháp
trao đổi thư từ như vậy đă
từng lan tràn rộng răi ở Hy Lạp cổ
đại, nhưng chỉ có năm bức thư
bằng ch́ “đến tay” các nhà bác học
hiện nay. Tại sao những cuộn kim loại
này lại là một thứ của hiếm? Đúng
là chẳng để ư đến lợi ích cho
con cháu ham hiểu biết của ḿnh, cho nên sau
khi đọc xong, người nhận thư
liền sử dụng nó làm quả cân và các
đồ sửa chữa mái nhà, cũng như
sử dụng vào các mục đích thực
dụng khác.
Bức thư t́m được ở Berezan
được viết từ thế kỷ VI trước
công nguyên, trong đó, một người tên là
Akhilođor đă kể với Anacxagor về
việc tranh chấp nô lệ. Trong một bức
thư khác, một người nào đó tên là
Batikon tâm sự với bạn ḿnh là Đifin
về những mối xúc động nhân một
vụ kiện tụng không đạt kết
quả. Thế là 2500 năm về sau, ch́ đă
cho các nhà sử học biết đôi nét về
đời sống và các mối quan hệ xă
hội của những người dân cổ Hy
Lạp di thực từng khai khẩn vùng ven
Biển Đen.
Trong thời đại chúng ta, các hợp chất
của ch́ có công dụng nhiều mặt. Từ
vài trăm năm nay, thế giới đă
biết đến pha lê - một thứ thủy
tinh trong suốt như xương mai hớn
hở trước sự nô giỡn của ánh
sáng và trước âm thanh du dương trong
trẻo. Thế mà sự xuất hiện của
pha lê lại liên quan với … ch́. Hồi đầu
thế kỷ XVII, những người nấu
thủy tinh ở nước Anh đă chuyển
từ cách nung bằng củi sang cách nung bằng
than. Hẳn là mọi sự phải tốt đẹp
nếu như không có muội than, mà muội than
th́ lại quá nhiều. Khi rơi vào “cao”
thủy tinh, các hạt muội than làm cho thủy
tinh trở nên tối màu và mờ đục.
Để tránh điều đó, người ta
bắt đầu nấu thủy tinh trong những
cái nồi kín mít, nhưng nó thường “không
chín”, và lúc bấy giờ, mà nói thật chính
xác là vào năm 1653, những bậc thầy
nấu thủy tinh đă quyết định pha
thêm ch́ vào “cao” thủy tinh để hạ
thấp nhiệt độ nóng chảy của nó.
Thế là đă xảy ra một điều
kỳ diệu: cái cốc bằng thủy tinh
mới này sáng lấp lánh như kim cương
và phát ra âm thanh kỳ ảo. Thủy tinh ch́
rất đẹp, tương tự như
những tinh thể thạch anh và được
gọi là pha lê. Vậy là nhờ có ch́ mà người
ta tạo ra được một vật liệu
tuyệt đẹp để làm nên những
sản phẩm thật đáng kinh ngạc.
Ngược lại, ch́ đă đem đến
những nỗi buồn phiền lớn cho
những người “yêu thích” pha lê. Một
lần, các cơ quan hữu trách đă điều
tra một vụ hỏa hoạn. Ngôi nhà bị
cháy trụi, nhưng thật may mắn cho người
chủ, tất cả tài sản đă được
bảo hiểm hoàn toàn, mà một khoản
tiền lớn đă được tính toán
để đền bù cho ông ta, v́ theo lời
ông ta th́ ngoài những vật khác, trong nhà đă
tồn giữ một bộ sưu tập pha lê
rất có giá trị, thế mà lửa đă
biến nó thành những cục thủy tinh
chẳng ra h́nh thù ǵ nữa. Tuy nhiên, các nhân
viên tiến hành cuộc điều tra vụ cháy
đă ngờ ngờ về đống “hài
cốt” pha lê trước mắt họ nên đă
đưa chúng đến nơi giám định.
Phép phân tích huỳnh quang đă cho biết
rằng, hàm lượng ch́ trong chất được
giám định ấy cực kỳ nhỏ, mà
đáng lẽ ra trong pha lê ch́ phải có mặt
với tỷ lệ đáng kể. Thế là
đi đếm kết luận: thứ pha lê
ấy chỉ là thủy tinh thông thường,
c̣n vụ hỏa hoạn th́ chỉ là một
vụ tự đốt nhà. Sau này mới vỡ
lẽ ra, chủ nhà đă chở hết mọi
thứ quư giá đi khỏi nhà từ trước
rồi thay thế pha lê bằng thủy tinh, sau
đó, đă tự đốt nhà ḿnh và bắt
đầu kiên nhẫn chờ đợi một
khoản tiền bù bảo hiểm to lớn. Nhưng,
ch́ đă ngăn lại. Từ thời xa xưa
người ta đă biết về những
chất màu chứa ch́. Chẳng hạn, bột
ch́ trắng đă được biết đến
từ ba ngàn năm về trước. Thời
bấy giờ, đảo Rođot được
gọi là nguồn cung cấp bột trắng
nhiều nhất. Phương pháp sản xuất
bột ở đây mặc dầu khác xa các phương
pháp hiện nay, song cũng rất đáng tin
cậy. Dung dịch dấm được rót vào
thùng gỗ, phía trên th́ sếp những cành cây
nhỏ và trên nữa th́ lại đặt
những cục ch́, sau đó đậy thùng
thật kín. Sau một thời gian nào đó, người
ta mở nắp thùng ra và thấy ch́ đă
được bao phủ bởi một lớp
màng màu trắng. Đó là bột ch́ trắng.
Bột ấy được nạo khỏi kim
loại, đem đóng gói rồi chuyên chở
đến các nước khác.
Một hôm, tại cảng Pirea ở Aten, một
chiếc tàu chở bột ch́ trắng
đương đỗ đấy bị bốc
cháy. Lúc này, hoa sĩ Nikias ở ngay cạnh đó.
Biết là trên con tàu đang cháy có các thứ
chất màu, ông đă nhảy lên tàu với hy
vọng cứu lấy dù chỉ một thùng thôi
cũng được, v́ lúc bấy giờ,
bột màu rất đắt, đôi khi cũng
không dễ kiếm. Nikias rất ngạc nhiên, ông
nh́n thấy trong các thùng bột đă bị cháy
không phải là một thứ bốt trắng
nữa mà là một chất sền sệt nào
đó màu đỏ tươi. Sau khi lấy
được một thùng, nhà họa sĩ
rời tàu và đi về hướng xưởng
vẽ của ḿnh. Chất ở trong thùng là
một thứ sơn màu tuyệt đẹp.
Về sau người ta gọi đó là hồng
đơn (minium - Pb3O4) và bắt đầu
chế nó bằng cách lấy bột ch́ trắng
đem nung quá lửa.
Chúng ta biết rằng, tranh và tượng
được vẽ bằng sơn ch́ sẽ
bị tối màu dần dần theo thời gian: do
ảnh hưởng của các tạp chất
đihiđro - sunfua thường xuyên có mặt
ở trong không khí sẽ sinh ra ch́ suafua có màu
thẫm. Nhưng chỉ cần lau bằng một
dung dịch loăng nước oxi già (H2O2) hoặc
giấm, thế là chất màu lại trở nên tươi
sáng. Biết được điều đó,
các cha cố thường lừa bịp tín đồ
bằng cách làm cho các tượng thánh “sống
lại” trước những cặp mắt
sửng sốt của giáo dân. Các thủy thủ
đi tàu ven bờ biển Thái B́nh Dương
ở Mỹ La tinh (nhất là ở bờ biển
Pêru, nơi có một lớp nước giàu đihiđrosunfua)
thường quen thuộc với thứ thuốc
vẽ của “họa sĩ Pêru”. Đó là cách
nói đùa để chỉ một hiện tượng
vẫn làm cho những hành khách chưa “thụ
giáo” phải kinh ngạc và bối rối:
chiếc tàu mà chiều hôm qua c̣n trắng như
tuyết, đến sáng sớm đă đen
kịt. Như các bạn đă biết, thủ
phạm ở đây chính là ch́.
Trong y học, các hợp chất của ch́
được dùng để chế các thứ
thuốc làm săn da, giảm đau và chống
viêm nhiễm. Chẳng hạn, ch́ axetat mà chúng ta
rất quen thuộc với cái tên là “cao ch́”.
V́ có vị hơi ngọt nên đôi khi nó
được gọi là “đường ch́”.
Nhưng trong bất cứ trường hợp nào
cũng không được quên rằng, “đường”
này có thể đầu độc cơ thể
rất mạnh.
Không phải ngẫu nhiên mà trong các xưởng
máy và trong các pḥng thí nghiệm - những nơi
mà con người phải tiếp xúc với ch́
hoặc với các hợp chất của ch́, người
ta phải áp dụng những biện pháp pḥng
ngừa đặc biệt. Các bác sĩ vệ
sinh pḥng bệnh và các kỹ sư bảo hộ
lao động thường xuyên theo dơi sao cho hàm
lượng ch́ trong không khí không vượt quá
mức cho phép - dưới 0, 000 01 miligam trong
một lít. Nếu như trước đây không
lâu, các chứng bệnh nhiễm độc ch́
là bệnh nghề nghiệp của công nhân nhà
máy luyện ch́ và xưởng in, th́ hiện này,
nhờ những biện pháp thông gió và khử
bụi nên người ta đă quên các chứng
bệnh này.
Một điều thú vị là không những con
người được bảo vệ khỏi
tính độc của ch́ mà c̣n được
bảo vệ… bằng ch́.
Ch́ kim loại là một trong những vật
liệu “ít trong suốt” nhất đối
với tất cả các loại tia phóng xạ và
tia rơngen. Nếu bạn cầm chiếc yếm
choàng hoặc chiếc găng tay của bác sĩ
điện quang th́ bạn sẽ kinh ngạc
bởi sức nặng của chúng, v́ trong cao su
dùng để làm ra những thứ ấy, người
ta đă pha thêm ch́ để ngăn cản tia rơngen,
nhờ vậy mà bảo vệ cơ thể
khỏi ảnh hưởng nguy hiểm của tên
này. Trong các khẩu “đại bác coban” dùng
để điều trị các khối u ác tính,
viên coban phóng xạ được giữ kín
trong vỏ bọc bằng ch́.
Trong ngành năng lượng học nguyên tử
và kỹ thuật hạt nhân, người ta
sử dụng các lá chắn bằng ch́. Thủy
tinh mà trong đó có chứa ch́ oxit cũng ngăn
ngừa được bức xạ phóng xạ.
Qua loại kính như vậy, ta có thể theo dơi
việc xử lư các vật liệu phóng xạ
bằng những “tay đảo liệu”,
tức là những thứ máy tự động
đảo liệu. Tại trung tâm nguyên tử
ở Bucaret có một cửa ló sáng bằng
tấm kính ch́, dày một mét, nặng hơn
một tấn rưỡi.
Hàm lượng ch́ trong vỏ trái đất
không nhiều lắm - ít hơn sắt hoặc
nhôm vài ngàn lần. Mặc dầu vậy, con người
đă biết đến nó từ thủa xa xưa
- khoảng sáu - bảy ngàn năm trước
công nguyên. Không giống như nhiều kim
loại khác, ch́ có nhiệt độ nóng
chảy thấp (327 độ C) và tồn tại
trong thiên nhiên dưới dạng những hợp
chất hóa học không bền vững lắm. Do
đó mà đôi khi có thể bắt gặp ch́
một cách bất ngờ. Chẳng hạn, người
ta đă biết một trường hợp, do…
một đám cháy rừng mà đă phát hiện
được một mỏ ch́ rất giàu ở
châu Mỹ: những tảng ch́ lớn được
t́m thấy dưới lớp tro ở nơi
rừng bị cháy. Đám cháy đă
“luyện” ch́ từ quặng nằm dưới
gốc cây. Có lẽ cũng chính bằng cách
đó mà những mảnh ch́ đầu tiên đă
lọt vào tay những cư dân tiền sử
của hành tinh chúng ta.
Bọ hung làm việc không “xả hơi” - Trong
những khu vườn của nữ thần
Semiramis - Một trên mười triệu - Phải
quanh co để làm ǵ? - Những mối quan
hệ gia đ́nh - Mèo lại được
gọi là mèo.
Một tượng cổ Ai Cập hiện đang
lưu giữ tại bảo tàng Anh quốc
được coi là sản phẩm bằng ch́
cổ nhất c̣n lại đến ngày nay:
tuổi của nó hơn sáu ngàn năm. Ở Tây
Ban Nha, vẫn c̣n những băi thải xỉ ch́
rất cổ: tại đây, ngay từ thiên niên
kỷ thứ ba trước công nguyên, người
Phenycia đă khai thác mỏ ch́ - bạc Rio - Tinto.
Khi khai quật thành phố Assur thuộc nước
Assyria cổ xưa, người ta đă t́m
thấy một tảng ch́ nặng gần 400
kilôgam. Các nhà khảo cổ học xác định
rằng, nó có vào khoảng 1300 trước công
nguyên.
Ch́ là kim loại mềm nhất trong số
tất cả các kim loại thông thường:
thậm chí, dùng móng tay cũng có thể cạo
được ch́. Trong cuốn sách phổ
cập tri thức nhan đề “Đời
sống của các động vật”, nhà động
vật học nổi tiếng người Đức
Anfret Eđmun Brem (Alfred Edmund Brhem) đă nêu ra
một sự việc lư thú: v́ muốn được
tư do nên đàn ong ṿ vẽ tinh khôn đă
gặm thủng vách của một ḥm bằng ch́
có bề dày 43 milimet. C̣n một số loài bọ
hung th́ biết cách đục lỗ trên các
ống bằng ch́ rất dày thuộc hệ
thống đường ống dẫn nước
trong thành phố. Các nhà bác học đă chú ư
đến khả năng này của bọ hung,
họ đă nhốt chúng trong một ống
nghiệm bằng thủy tinh rồi đậy
lại bằng một lá ch́ mỏng để
theo dơi. Bọ hung biết rơ là không gặm
nổi thủy tinh, nhưng đối với
chúng th́ ch́ là một trở ngại hoàn toàn có
thể vượt qua được. Chúng bắt
đầu mở đường t́m chốn
tự do, tuy chậm nhưng rất cần
mẫn, bằng cách gặm ṃn và vứt ra
những hạt ch́ rất nhỏ, song mắt thường
vẫn nh́n thấy được. Phương
pháp làm việc “đồng đội” của
lũ côn trùng đă khiến các nhà động
vật học phải kinh ngạc: tất cả
“bọn tù” luân phiên nhau “khoan” một
lỗ; dường như chúng hiểu rằng,
chỉ cần một lối đi qua lớp hàng
rào cũng đủ cho phép cả bọn thỏa
chí bay ra. Để đạt tới mục đích,
bọn bọ hung phải làm việc trong sáu
giờ - chưa đầy một ngày công - nhưng
không có giải lao.
Độ mềm của ch́ không cho phép nó
cạnh tranh với đồng, với đồng
đỏ hoặc sắt với tư cách là
vật liệu để làm công cụ lao động.
Thế nhưng, dùng kim loại này để làm
các đoạn ống và các chi tiết khác
của ống dẫn nước th́ rất
tiện lợi. Chúng ta đă nói đến
ống dẫn nước ở La Mă cổ xưa.
Những khu vườn treo của nữ hoàng
Semiramit từng được công nhận là
một trong bảy kỳ quan của thế
giới đă được tới nước
nhờ một hệ thống phức tạp
gồm các giếng nước, các ống dẫn
nước và các công tŕnh thủy lợi khác;
tất cả các hệ thống này đều
được làm bằng ch́. Hồi nửa
đầu thế kỷ XVII, trong tháp Svipla ở
khu điện Cremli Maxcơva, người ta đă
đặt một bể chứa nước làm
bằng những tấm ch́. Nước từ
sông Maxcơva được bơm vào đây,
rồi lại theo ống ch́ chảy từ đây
đến cung điện nhà vua, đến các vườn
tược và những công tŕnh quan trọng khác.
Do đó, tháp này được gọi là tháp
Dâng nước.
Thời xưa, ch́ c̣n làm một công việc khác
nữa cũng liên quan với nước. Người
cổ Hy Lạp đă nhận thấy rằng,
các loại thân mềm, tôm cua và các cư dân
khác của thủy phủ vốn rất thích bám
vào tàu thuyền, nhưng chúng không thể
chịu nổi tính độc của ch́ oxit.
Bởi vậy, những người đóng
thuyền thời xưa rất hay sử dụng
ch́ để bọc tàu thuyền, thế là
những động vật hay bám này phải lánh
xa hàng ngàn mét. Ngoài ra, ch́ c̣n bảo vệ
rất tốt đáy thuyền và các đinh
thuyền bằng sắt khỏi bị han gỉ.
Thế kỷ XX đă giao phó cho ch́ nhiều công
việc quan trọng và lư thú, nhưng cũng
đặt ra cho nó một loạt những yêu
cầu rất cao, đặc biệt là về
mức độ tinh khiết của ch́. Liên Xô
đă hoàn chỉnh được phương
pháp tinh luyện bằng hỗn hống, mà
lần đầu tiên trong thực tiễn trên
thế giới, nó cho phép thu nhận được
ch́ siêu tinh khiết: chỉ c̣n lại 0, 000 01 %
tạp chất. Điều đó có nghĩa là,
trong một tấn ch́ loại này, khó có thể
vét được một phần mười gam
gồm tất cả các nguyên tố khác gộp
lại!
Hẳn là có thể kết thúc câu chuyện
về của ch́ ở đây, nhưng chúng ta c̣n
chưa nói ǵ về tên gọi của nguyên
tố này. Từ “CBNHEU” (trong tiếng Nga, nghĩa
là ch́) có lẽ xuất phát ở từ
“CBNHKA” nghĩa là “con lợn” v́ trước
đây, người ta gọi các thỏi ch́ như
vậy (hiện nay người ta lại gọi
nó là 4YIIIKA, nghĩa là “lợn sữa”). Nhưng
trước khi được gọi là “CBNHEU”
(ch́), kim loại này đă sống dưới
những cái tên khác.
Một chuyển cổ tích thú vị của X.
Ia.Marsac kể rằng, lúc đầu, người
ta đă gọi con mèo là mặt trời, sau đó
gọi nó là mây đen, là gió, là chuột, và
cuối cùng, lại gọi là mèo. Hẳn bạn
c̣n nhớ chuyện này chứ. Cũng có một
cái ǵ tương tự như thế đă
xảy ra với ch́.
Bạn hăy nh́n vào từ điển giải nghĩa
của Vlađimir Ivanovich Đan và sẽ biết
rằng, ngạn ngữ “C OBO - O OBO” không
phải nói đến thiếc, mà nói đến
ch́ - một loại kim loại nặng hơn. C̣n
chính câu ngạn ngữ th́ được sử
dụng khi nói về một lời nói chắc
chắn xác thực, đáng tin cậy (na ná như
“lời nói - gói bạc” hay “lời nói - đọi
máu” trong tiếng Việt). Nhưng tại sao
lại có sự quanh co như vậy, thà cứ
nói thẳng ra cho đơn giản: “C OBO - O
OBO” có hơn không? Hóa ra là ở nước Nga
thời xưa, người ta đă gọi
“ch́” (CBNHEU) là “thiếc” (C OBO). C̣n thiếc
thực sư lại xuất hiện muộn hơn,
vả lại, lúc đầu người ta
nhầm nó là “ch́” (quả thật là tính
chất của hai kim loại này giống nhau
ở một mức độ nào đó). Cuối
cùng, khi người ta đă phân biệt chúng th́
tên gọi cũ được đặt cho kim
loại mới, c̣n bậc tiền bối của
nó th́ được gọi là “ch́” (CBNHEU). Người
La mă cổ xưa cũng nhầm lẫn hai kim
loại này. Họ đă gọi ch́ là “plumbum
negrum” (ch́ đen), c̣n gọi thiếc là “plumbum
album” (ch́ trắng).
Những mối quan hệ "gia đ́nh” như
vậy c̣n ràng buộc ch́ với một kim
loại nữa là molipđen. Trong tiếng Hy
Lạp, “molybdena” nghĩa là “ch́”. Hóa ra
ở thời cổ, nhiều người đă
nhầm lẫn khoảng vật của hai kim
loại này (galenit và molipđenit), rồi cùng
gọi chúng là “molybdena”. Sau đó nhiều
thế kỷ, người ta đă thu được
một nguyên tố mới từ molybdena (tức
là molipđen) - nó đă mượn cái tên cổ
Hy Lạp của ch́.
Thế là, mèo đă được gọi đúng
tên là mèo. C̣n ch́ đă trở thành ch́.
|
|