|
[...] Những vấn đề của các
nhà giả kim thuật - Chân lư ở trong nước
- Đành bó tay v́ không có pháo hoa - Trong ngọn
lửa của que diêm - Ở những lớp dưới
của vỏ manti - “Da đá” [...]
T́m kiếm loại “đá mầu nhiệm”
trứ danh là một trong những vấn đề
chủ yếu mà biết bao “cán bộ khoa
học” của các pḥng thí nghiệm giả kim
thuật thời trung cổ đă dốc sức vào
đấy. Họ hy vọng rằng, nếu có
loại đá đó th́ sẽ t́m ra bí quyết
để biến các kim loại rẻ tiền thành
vàng.
Các cuộc t́m kiếm đă được
tiến hành theo nhiều hướng khác nhau.
Một số người đề nghị dùng
ch́ vào mục đích này. Ch́ phải được
đốt nóng đến khi thu được
“sư tử đỏ” (tức là đến
khi nóng chảy), sau đó đem đun sôi trong rượu
vang chua. Những người khác lại cho
rằng, nước đái của súc vật là
nguyên liệu thích hợp nhất để làm ra
“ḥn đá mầu nhiệm”. Một số người
khác th́ cho rằng, chân lư ở trong nước.
Cuối thế kỷ XVIII, một trong những nhà
giả kim thuật người Anh, có lẽ là người
theo phái thứ ba, lấy nước lấy
chảy ra từ ḷng đất ở gần thành
phố Epxom đem đun cho bốc hơi hết,
kết quả là đă thu được một
loại muối có vị đắng và có tác
dụng nhuận tràng, chứ không phải là
“thứ đá mầu nhiệm”. Mấy năm
sau mới phát hiện ra rằng, khi tương tác
với “kiềm bất biến” (thời
bấy giờ người ta gọi xút và potat như
vậy), muối này tạo ra một chất
bột màu trắng, xốp và nhẹ. Khi nung
một khoáng vật t́m thấy ở ngoại vi
thành phố cổ Hy Lạp Magnexi, người ta
cũng thu được thứ bột đúng như
thế. V́ sự giống nhau này nên muối Epxom
đă được gọi là magezit trắng.
Năm 1808, nhà bác học người Anh là Humphry
Davy khi phân tích magezit trắng đă thu được
một nguyên tố mới mà ông gọi là magie.
Lễ mừng nhân dịp t́m ra nguyên tố
mới này đă không có pháo hoa, bởi v́
thời bấy giờ chưa ai biết rằng,
“đứa con mới sinh” này có những tính
chất tuyệt vời thuộc về kỹ
thuật làm thuốc pháo.
Magie là một thứ kim loại trắng như
bạc và rất nhẹ. Nó nhẹ hơn đồng
hoặc sắt khoảng năm lần; ngay cả
nhôm “có cánh” cũng nặng hơn magie một
lần rưỡi. Nhiệt độ nóng
chảy của magie không cao lắm, chỉ 650
độ C, nhưng trong những điều
kiện b́nh thường th́ nấu chảy magie
lại tương đối khó, v́ khi bị nung
nóng trong không khí đến 550 độ C, nó bùng
lên và bốc cháy tức khắc với ngọn
lửa sáng đến chói mắt (tính chất này
của magie được sử dụng rộng
răi trong kỹ thuật làm thuốc pháo). Để
đốt kim loại này, chỉ cần gí vào nó
một que diêm cháy dở, c̣n trong môi trường
khí clo th́ nó tự bốc cháy ngay ở nhiệt
độ ở trong pḥng.
Khi cháy, magie tỏa ra nhiệt lượng rất
lớn và nhiều tia tử ngoại: chỉ vài
gam “nhiên liệu” cũng đủ để
đun sôi một cục nước đá. Các nhà
khoa học ở Viện hóa học công nghiệp
Vacsava đă lợi dụng tính chất này
của magie vào một việc rất độc
đáo: họ đề nghị chế tạo
thử vỏ đồ hộp có gắn một
mảnh magie mỏng để làm chất đốt
nóng: chỉ cần mở hộp ra là mảnh
magie tự bốc cháy và vài phút sau, có thể
dọn ngay món ăn nóng lên bàn.
Trong không khí, magie bị mờ đục rất
nhanh bởi nó bị bao phủ bởi một
lớp màng oxit. Màng này trở thành lớp “áo
giáp” chắc chắn, giữ cho kim loại không
bị oxi hóa thêm nữa.
Magie là một kim loại hoạt động
mạnh: nó chiếm đoạt oxi và clo ở
đa số các nguyên tố khác một cách
dễ dàng. Tuy magie bền vững, chống
lại được tác động của
một số axit, natri cacbonat, các chất kiềm
ăn da, xăng, dầu hỏa, dầu khoáng, nhưng
magie lại chịu khuất phục trước nước
biển và bị ḥa tan trong đó. Nó hầu như
không tương tác với nước lạnh,
song lại đẩy oxi rất mạnh ra khỏi
nước nóng.
Vỏ trái đất rất giàu magie: bảy “đồng
nghiệp” của nó trong Bảng tuần hoàn Menđelêep
có mặt trong thiên nhiên với khối lượng
lớn. Các nhà bác học phỏng đoán
rằng, ở các lớp dưới cùng của
vỏ trái đất, hàm lượng nguyên
tố này hết sức lớn. Magie có trong thành
phần của gần hai trăm khoáng vật.
Trong số đó có một khoáng vật rất khác
thường: nó dễ gấp lại như
chiếc khăn tay, có thể dùng nó như
một tờ giấy để gói một vật
nào đó, và cuối cùng, lại khó mà dùng ngón
tay để xé rách nó thành từng mảnh.
Năm 1953, tại vùng Viễn Đông, người
ta đă t́m thấy một mẫu khoáng vật như
vậy, quả là có một không hai. Khi đào
giếng khai thác ở một mỏ quặng đa
kim, công nhân ở đấy đă phát hiện ra
một cái hang nhỏ và trong đó có một
“tấm màn” trắng như bạc buông thơng
từ đỉnh xuống tựa như được
gập làm đôi. “Tấm màn” này dài chừng
một mét rưỡi, sờ vào th́ cảm
thấy như da thú, vừa mềm vừa dai.
Độ nhẹ của “vải” này khiến
mọi người phải kinh ngạc. Người
ta liền gửi ngay vật lạ vừa t́m
được này đến Maxcơva. Phép phân tích
hóa học đă cho biết rằng, nó chủ
yếu gồm magie alumosilicat và là palưgockit -
một khoáng vật thuộc nhóm atbet lần đầu
tiên được viện sĩ A. E. Fexman phát
hiện ở mỏ Palưgorxcơ hồi
những năm hai mươi của thế kỷ
này. V́ nó có những tính chất khác thường
như vậy nên người ta gọi khoáng
vật này là “da đá”. Mẫu “da đá” t́m
được ở Viễn Đông hiện
được tồn trữ tại Viện
bảo tàng khoáng vật học thuộc Viện hàn
lâm khoa học Liên Xô. Mẫu này trở thành
nổi tiếng là v́ lần đầu tiên trên
thế giới t́m thấy một mẫu da đá
có kích thước lớn như vậy.
Magezit, đolomit và cacnalit là các khoáng vật có ư
nghĩa quan trọng nhất về mặt nguyên liêu
dùng để sản xuất magie.
[...] Cách nào tốt hơn? - Hải vương có
thể ngủ yên - Mọi người đều
góp cổ phần của ḿnh - Trong những giây
phút nóng nực - Trong lĩnh vực luyện kim -
Đấu tranh chống lại tính “dễ phát
khùng” [...]
Có hai phương pháp sản xuất magie: phương
pháp nhiệt điện và phương pháp điện
phân. Trong trường hợp thứ nhất, người
ta điều chế magie trực tiếp từ
oxit bằng cách dùng một chất khử nào
đó, chẳng hạn như cacbon, nhôm v. v... cho tác
dụng với magie oxit. Phương pháp này khá
đơn giản và trong thời gian gần đây
được sử dụng ngày càng rộng răi.
Nhưng hiện nay, phương pháp điện phân
vẫn là phương pháp công nghiệp chủ
yếu để điều chế magie. Ở
đây người ta điện phân các muối
magie nóng chảy, chủ yếu là các muối
clorua. Bằng cách này có thể thu nhận
được magie rất tinh khiết, chứa không
đến 0,01 % tạp chất.
Không phải chỉ riêng vỏ trái đất
mới giàu magie. Những kho tàng xanh thẳm
của các biển và đại dương đang
bảo tồn những trữ lượng magie
được bổ sung thường xuyên và
thực tế là không bao giờ cạn. Chỉ
cần nói rằng, trong một mét khối nước
biển có tới gần bốn kilôgam magie th́
đủ thấy điều đó. C̣n toàn
bộ khối lượng nguyên tố này ḥa tan
trong nước biển và đại dương
là 6.1016 tấn. Ngay cả những người
ở xa cách với toán học có lẽ cũng h́nh
dung được con số này to lớn đến
chừng nào. Tuy nhiên, để thấy rơ hơn,
chúng ta hăy h́nh dung: từ đầu công nguyên
đến nay, loài người mới trải qua
hơn 60 tỉ (6.1010) giây. C̣n nếu như ngay
từ ngày đầu công nguyên, người ta
đă bắt đầu khai thác magie từ nước
biển và đến nay phải rút cho hết toàn
bộ trữ lượng nguyên tố này trong nước
th́ mỗi giây phải khai thác được
một triệu tấn magie!
Tuy vậy, hải vương vẫn có thể yên
tâm về của cải của ḿnh: ngay cả
trong những năm chiến tranh thế giới
thứ hai, khi mà việc sản xuất magie đạt
mức đáng kể, th́ người ta cũng
mới chỉ khai thác được từ nước
biển cả thảy 80 ngàn tấn magie trong
một năm (chứ không phải trong một giây!).
Công nghệ khai thác magie khá đơn giản.
Trong những chiếc thùng lớn người ta
trộn lẫn nước biển với vôi
vữa làm từ vỏ ṣ biển nghiền
vụn. Kết quả là tạo thành vữa
magezi; sau đó vữa này chuyển thành magie
clorua. Tiếp theo, magie được tách khỏi
clo bằng cách điện phân. Hiện nay, các nhà
máy sản xuất magie từ nước biển
đang hoạt động ở nhiều nước,
mà chủ yếu là ở các nước không có
trữ lượng magie phong phú. Tiện thể các
xí nghiệp ven biển này c̣n điều chế
muối ăn, muối Glaubơ, clo, nước
uống và nước muối để sản
xuất xút ăn da.
Nước ở các hồ mặn chứa magie
clorua cũng có thể là một nguồn cung
cấp magie. Ở Liên Xô cũng có những
“kho” magie như thế, chẳng hạn, ở
Crưm (hồ Xaki, hồ Xaxưc - Ivas), ở lưu
vực sông Vonga (hồ Entôn) và nhiều nơi khác.
Vịnh Cara-Bôgat-Hôn tồn trữ nhiều nguyên
liệu magie: nước mặn ở đây
chứa tới 30% muối của nguyên tố này.
Như vậy, các bạn đă biết magie là ǵ
và nó được khai thác như thế nào.
Song nguyên tố này và các hợp chất của nó
được sử dụng vào mục đích ǵ?
Tính nhẹ có thể làm cho kim loại trở thành
một vật liệu kết cấu tuyệt
với. Nhưng tiếc thay, magie nguyên chất
lại mềm và không bền. V́ vậy, các nhà
thiết kế buộc phải sử dụng các
hợp kim của magie với các kim loại khác.
Hợp kim của magie với nhôm, với kẽm,
với mangan được sử dụng rất
rộng răi. Mỗi một thành phần của
cộng đồng này đều góp “cổ
phần” của ḿnh vào những tính chất
chung: nhôm và kẽm làm tăng độ bền
của hợp kim, mangan làm tăng tính chất
chống ăn ṃn. C̣n magie th́ sao? Magie làm cho
hợp kim trở nên nhẹ - các chi tiết làm
bằng hợp kim magie nhe hơn 20 - 30% so với làm
bằng nhôm, nhẹ hơn 50 - 75% so với làm
bằng gang hoặc thép. Trong thời gian gần
đây, nhiều nước đă chế tạo
được những hợp kim kết cấu
nhẹ khác thường, gồm magie và liti, mà
lẽ tất nhiên, lúc nào cũng t́m được
những công việc thú vị liên quan tới chúng.
Các nhà chế tạo máy bay không thể không chú
ư đến tính nhẹ của các hợp kim
magie. Ngay từ năm 1934, Liên Xô đă chế
tạo chiếc máy bay “Sergo Orjônikitze” hoàn toàn
bằng các hợp kim magie. Sau khi thử nghiệm
thành công, máy bay này đă được sử
dụng trong nhiều năm. Kinh nghiệm này đă
có ích trong nhiều năm chiến tranh vệ
quốc vĩ đại, khi mà các hợp kim magie
được dùng để chế tạo xe, thân
các khí cụ và các chi tiết máy bay.
Magie cũng có cơ sở vững chắc để
được sử dụng trong kỹ thuật
tên lửa: nhờ có tỉ nhiệt cao mà ở
những thời điểm nóng nhất, các
bộ phận bên ngoài của máy móc vũ
trụ làm bằng hợp kim magie bị nóng ít hơn
so với làm bằng thép.
Công nghiệp chế tạo ô tô, công nghiệp
dệt, in, kỹ thuật vô tuyến, sản
xuất khí cụ quang học - ngày nay, đâu
đâu cũng sử dụng những hợp kim
nhẹ của magie. Nguyên tố này đóng vai tṛ
không kém phần quan trọng trong cả ngành
luyện kim. Nó được sử dụng làm
chất khử khí trong quá tŕnh sản xuất
nhiều thứ kim loại (vanađi, crom, ziriconi,
titan). Magie góp phần vào việc khử oxi trong
thép và trong các hợp kim - nó làm giảm lượng
oxi là chất rất có hại đối với
kim loại.
Khi pha vào gang nóng chảy, magie làm cho gang thay đổi
tính chất, làm cho cấu trúc và nhiều tính
chất cơ học khác của gang trở nên
tốt hơn. Các vật đúc bằng gang
biến tính có thể thay thế các vật rèn
bằng thép. Tuy nhiên, không phải dễ làm cho
magie tiếp xúc với các kim loại nóng
chảy, v́ nhẹ nên nó không chịu ch́m vào kim
loại lỏng mà cứ nổi trên bề
mặt, rồi cháy bùng lên và làm cho gang tung toé
khỏi gáo múc. Thật là dễ hiểu khi
loại “pháo hoa” như thế không làm cho các
nhà luyện kim thích thú. Ở đây đă t́m
được lối thoát: ép hỗn hợp
gồm magie, chất dẻo và các thành phần
khác thành từng bánh, bên trong có lơi thép đóng
vai tṛ làm vật nặng. Bánh này sẽ “ngoan
ngoăn” lặn vào gang nóng chảy. Các chất
phụ bao quanh magie sẽ cháy từ từ, không
làm cho magie bùng lên. Lơi thép tan ra nhanh chóng và ḥa
tan trong gang nóng chảy, magie c̣n lại một
ḿnh chẳng gây nên điều ǵ khác ngoài
việc cải thiện tính chất của gang.
Hoạt tính hoá học của magie đă gợi
cho các công tŕnh sư ngành thuỷ lợi một
ư nghĩ thú vị: d́m một tấm magie vào nước
và nối nó với kết cấu kim loại
ngầm bằng một dây dẫn là ta có
được một bộ bin có kích thước
rất lớn, trong đó, nước đóng vai
tṛ chất điện phân. Tấm magie thực
hiện chức năng của một điện
cực hoạt động sẽ bị phá
hoại dần dần, song nhờ vậy mà nó
bảo vệ vững chắc phần kim loại
của kết cấu chính. Các hành lang ngầm
bằng thép và bê tông cốt thép của công
tŕnh khai thác mỏ Đá Dầu – nơi ở
của những người khai thác dầu mỏ
trên biển Caxpi, đều được
bảo vệ bằng phương pháp này.
[...] Điều ǵ xảy ra dưới nước?
- áo lặn đă sẵn sàng. “B́nh tĩnh ! Tôi
chụp nhé!”. - Có những việc quan trọng hơn.
- Trong vỏ trứng. - Hăy ăn chuối đi! -
Chứng nhồi máu cơ tim đang đe
doạ[...]
Dưới nước, magie c̣n có một công
dụng khác. Ở nước Anh, người ta
đă chế tạo một loại áo lặn sâu
bằng các hợp kim của magie có khả năng
chịu được áp suất thuỷ tinh
lớn. Không bao lâu nữa sẽ đến lúc
mà các nhà địa chất, thợ khoan, thợ
lắp ráp sẽ mặc những bộ quần
áo nhẹ và bền như vậy để
lặn xuống đáy biển tiến hành
những công việc liên quan tới việc khai
thác khoáng sản.
Magie (ở dạng bột, dạng sợi,
dạng dải) bốc cháy với ngọn lửa
sáng trắng tới chói mắt. Tính chất
ấy được sử dụng rộng răi
trong kỹ thuật quân sự - để sản
xuất pháo sáng và pháo hiệu, đạn pháo
vạch đường và bom cháy. Trước
đây, các nhà nhiếp ảnh đă rất quen
thuộc với nguyên tố này: “B́nh tĩnh!
Tôi chụp nhé!” – thế rồi ánh chớp
rực sáng của bột magie chiếu rọi vào
khuôn mặt của những ai muốn giữ
lại h́nh ảnh của ḿnh cho con cháu. Ngày nay,
magie không c̣n giữ vai tṛ này nữa – các đèn
điện cực mạnh đă buộc nó
phải “từ chức”.
Nhưng chắn hẳn điều đó không làm
cho magie phải buồn rầu: nó c̣n có những
công việc quan trọng hơn. Chính magie tham gia
vào một công việc to lớn là tích luỹ năng
lượng mặt trời. Magie có mặt trong
chất diệp lục – một pháp sư vĩ
đại, là chất hấp thụ năng lượng
mặt trời rồi dùng năng lượng
ấy để biến khí cacbonic và nước
thành những chất hữu cơ phức tạp
(đường, tinh bột...) cần thiết cho
sự sống của con người và của
mọi động vật. Quá tŕnh tạo thành
các chất hữu cơ như vậy được
gọi là sự quang hợp; quá tŕnh này có kèm
theo sự giải phóng oxi từ lá cây. Nếu
không có chất diệp lục th́ sẽ không có
sự sống, mà nếu không có magie th́ không có
chất diệp lục, v́ nguyên tố này
chiếm đến 2% trong đó. Như vậy có
nhiều không? Các bạn thử đoán xem:
chỉ riêng lượng magie trong chất diệp
lục của thực vật cũng đă lên
đến gần 100 tỷ tấn! Ngoài thực
vật ra, magie c̣n có mặt trong hầu hết
tất cả các cơ thể sống. Giả
sử bạn cân nặng 60 kg th́ trong đó có
chừng 25 g magie.
Hồi giữa những năm 60, các nhà bác
học ở Trường đại học
tổng hợp Minnexôta (Mỹ) đă làm một
việc rất bổ ích: họ đă chọn
vỏ trứng làm đối tượng nghiên
cứu khoa học và xác định được
rằng, vỏ trứng chứa càng nhiều magie
th́ càng bền chắc. Điều đó có nghĩa
là nếu thay đổi thành phần thức
ăn của gà đẻ, ta có thể làm tăng
độ bền của vỏ trứng. Chỉ
cần qua những con số sau đây cũng
đủ thấy tầm quan trong của kết
luận này đối với nông nghiệp:
chỉ riêng ở bang Minnexôta, thiệt hại
hàng năm do nạn vỡ trứng lên tới hơn
một triệu đô la. Vậy sẽ không có ai
nói rằng, công tŕnh nghiên cứu này của các
nhà bác học là không có giá trị.
Magie cũng được sử dụng rộng
răi trong y học : chúng ta đă nói đến
“muối Anh” (tức magie sunfat) là một
thứ thuốc xổ rất tốt. Magie oxit tinh
khiết (magezi nung) được sử dụng
khi độ axit của dịch vị quá cao, khi
bị ợ chua và nhiễm độc axit. Magie
peroxit là một thứ thuốc chống nhiễm
khuẩn khi bị rối loạn tiêu hoá.
Các số liệu thống kê đă khẳng định
rằng, những người sống ở các
vùng có khí hậu ấm áp th́ ít bị bệnh
co thắt mạch máu hơn so với những người
phương bắc. Như chúng ta đă biết,
tiêm dung dịch của một số muối magie
vào tĩnh mạch hoặc vào bắp thịt th́
trị được chứng co thắt và kinh
giật. Hoa quả và rau giúp cho việc tích
luỹ một lượng dự trữ cần
thiết các muối này trong cơ thể (mơ,
đào và súp lơ rất giàu magie). Chẳng
hạn, ở châu Á, nơi mà khẩu phần
thức ăn nhiều magie, th́ bệnh xơ
cứng động mạch và các chứng
bệnh tim mạch khác ít xảy ra hơn ở
châu Âu hoặc châu Mỹ. Các thầy thuốc
ở Anh khuyên rằng, mỗi ngày nên ăn
bốn qủa chuối để bù lại
một nửa nhu cầu về magie của cơ
thể trong một ngày đêm (khoảng 0,3 – 0,5
gam).
Những thí nghiệm do các nhà khoa học Hungari
tiến hành trên động vật đă xác
nhận rằng, nếu thiếu magie trong cơ
thể th́ dễ mắc bệnh nhồi máu. Người
ta đă cho một số con chó ăn với
khẩu phần giàu magie và một số con chó
khác với khẩu phần nghèo magie. Kết
quả thí nghiệm này đă cho thấy rằng,
những con chó nào mà khẩu phần ăn
của chúng thiếu magie th́ đều mắc
bệnh nhồi máu cơ tim.
Ở những người hay cáu gắt, dễ
bị xúc động, các cơ tim khi làm việc
thường hay bị rối loạn hơn là
ở những người điềm tĩnh.
Sở dĩ như vậy là v́ khi tức giận
magie có trong cơ thể sẽ bị “bốc
cháy”.
Các nhà sinh học Pháp cho rằng, nguyên tố này
sẽ giúp các thầy thuốc chống lại
một căn bệnh nghiêm trọng của
thế kỷ XX là bệnh lao lực. Các công
tŕnh nghiên cứu đă cho thấy rằng, trong
máu của những người mệt mỏi có
ít magie hơn so với những người c̣n
sung sức, và ngay cả khi mà “đường
cong magie” chỉ bị lệch rất ít so
với mức b́nh thường th́ cũng không
phải là hoàn toàn vô sự.
[...] Con trai hay con gái? - Không phải chỉ trong y
học - Không cần chờ - Một trăm năm
sau - Tựa như chiếc vĩ cầm - Vai tṛ
tốt nhất từ nay về sau - “Chuyến
công du” lên mặt trăng [...]
Các nhà sinh học Pháp cũng đă xác định
được ảnh hưởng rất đáng
chú ư của nhiều nguyên tố đối
với giới tính của thế hệ con cháu.
Th́ ra, nếu trong thức ăn của con vật
mẹ mà thừa kali th́ đàn con sinh ra sẽ
chủ yếu là con đực, c̣n nếu
thức ăn chứa nhiều canxi và magie th́
đàn con sinh ra chủ yếu là con cái. Có
thể chẳng bao lâu nữa, các thầy
thuốc sẽ thảo ra những thực
đơn đặc biệt cho các bà mẹ tương
lai bảo đảm cho họ sinh con trai hay con gái
theo ư muốn. Nhưng trước hết cần
phải xác định cho rơ, tác dụng của
các nguyên tố này như đă ghi nhận
được, liệu có thể áp dụng
được cho con người hay không. Bởi
v́, các cuộc khảo nghiệm vừa kể
mới chỉ được tiến hành đối
với ... ḅ cái.
Phạm vi sử dụng các hợp chất
của magie không phải chỉ bó hẹp trong y
học. Chẳng hạn, magie oxit được
sử dụng trong công nghiệp cao su, trong
việc sản xuất xi măng, gạch chịu
lửa. Một hăng ở Canada đă hoàn chỉnh
công nghệ sản xuất một loại vật
liệu chịu lửa mới chống được
ảnh hưởng của các loại xỉ, có
độ bền cao và độ rỗng nhỏ;
ở đây, magie oxit có độ tinh khiết cao
chính là thành phần chủ yếu của
loại vật liệu chịu lửa này.
Như chúng ta đều biết, các đèn điện
tử thông thường chỉ bắt đầu
làm việc sau khi chúng đă được đốt
nóng. Mỗi lần chúng ta mở máy thu thanh
hoặc thu h́nh đều phải chờ một
lúc rồi mới nghe được tiếng
nhạc hoặc nh́n thấy màn ảnh nhấp
nháy. Để khắc phục nhược điểm
này của đèn điện tử, các nhà khoa
học Ba Lan đă đề nghị phủ
một lớp magie oxit lên catôt. Loại đèn
mới này sẽ làm việc ngay khi đóng
mạch.
Ngay từ năm 1867, một người Pháp tên
là Xoren đă trộn magie oxit nung nóng với dung
dịch magie clorua đậm đặc và đă
thu được cái gọi là ximăng magezi (hay
ximăng Xoren). Ngày nay, người ta sử
dụng chất gắn kết này để
sản xuất các liệu vật liệu xây
dựng vừa nhẹ vừa chống cháy,
vừa cách âm: đó là fibrolit làm từ phoi
gỗ và xilolit làm từ mùn cưa.
Magie peroxit được dùng để tẩy
trắng vải, magie sunfat được sử
dụng trong công nghiệp dệt và công nghiệp
giấy để làm chất tẩy trước
khi nhuộm, c̣n magie cacbua th́ được dùng
vào việc sản xuất vật liệu cách
nhiệt.
Cuối cùng một lĩnh vực hoạt động
quan trọng nữa của magie là ngành hóa học
hữu cơ. Ở dạng bột, magie được
sử dụng để khử nước trong
các chất hữu cơ quan trọng như rượu
và anilin. Các hợp chất hữu cơ chứa
magie (trong đó, nguyên tử magie trực tiếp
liên kết với nguyên tử cacbon) có ư nghĩa
rất lớn. Các chất này, đặc biệt
là các hợp chất ankin- magie- halogenua (thuốc
thử Grignard) mà trong thành phần của nó có
các halogen (clo, brom hoặc iot), được
sử dụng rộng răi trong hóa học. Vai tṛ
của các hợp chất này quan trọng tới
mức vào năm 1912, nhà hóa học người
Pháp là Grinia (Grignard) được nhận
giải thưởng Nobel do đă điều
chế được các ankin- magie- halogenua và
hoàn thành việc tổng hợp các chất
hữu cơ. Sau đó nhiều năm, ông đă
viết: “ Tựa hồ như một cây đàn
vĩ cầm đă được lên dây thật
tốt, dưới những ngón tay điêu
luyện, các hợp chất hữu cơ chứa
magie có thể phát ra những tiếng ngân vang
với âm hưởng mỗi lúc một mới
mẻ, bất ngờ và hài ḥa hơn”.
...Thế đấy, hoạt động của
magie trong thiên nhiên và trong nền kinh tế
quốc dân thật là đa dạng, trên nhiều
phương diện. Song có lẽ hăy c̣n sớm
nếu ta nói về nguyên tố này rằng:
“Tất cả những ǵ có thể làm
được th́ nó đă làm hết cả
rồi”. Nhà luyện kim Xô - Viết nổi
tiếng, viện sĩ A. F. Bêlop đă tiên đoán
việc sử dụng rộng răi magie làm vật
liệu kết cấu. Ông viết: “Đến năm
2000, nhất thiết sẽ t́m được
cách bảo vệ magie khỏi bị ăn ṃn và
nó sẽ là một trong những kim loại cơ
bản”.
Các hợp kim của magie đă được
lên mặt trăng; nơi đây, ở dạng
một số chi tiết của chiếc máy khoan
tự động đặt trên trạm
“mặt trăng - 24”, chúng đă tham gia vào
việc lấy mẫu đất đá trên
Nguyệt Cầu. Những yêu cầu rất nghiêm
ngặt đă được đặt ra cho
việc lấy mẫu đất đá. Thứ
nhất là cơ cấu này phải nhẹ, v́
trong một cuộc du hành đường dài như
vậy, phải tốn một lượng
chất đốt rất lớn cho mỗi kg vô
ích. Thứ hai là các chi tiết của máy
phải rất bền: nếu không tin chắc
rằng chúng sẽ không dẫn đến
những giây phút gian nan th́ việc đưa
chúng vào mỗi chuyến công cán hệ trọng
như vậy chẳng c̣n có ư nghĩa ǵ nữa.
Mà quả thật, có thể coi những phút làm
việc trên mặt trăng thực sư là
những phút cực kỳ gay go.
Những người thiết kế máy khoan
tự động lấy mẫu đất đá
nói trên đă quyết định sử dụng
các hợp kim của titan và magie, v́ chúng vừa
nhẹ vừa bền. Trước khi đưa
lên mặt trăng, các nhà bác học đă
thử nghiệm thiết bị lấy mẫu
đất đá trong những điều kiện
khó khăn nhất trên trái đất. Nó
được kiểm tra bằng cách cho khoan
đủ mọi loại đất đá khác
nhau, trong đó có cả những loại đất
đá rắn chắc nhất. Lúc đầu,
cuộc thử nghiệm được tiến
hành trong những điều kiện khí hậu
b́nh thường, sau đó mới thử
nghiệm trong những buồng kín lớn, có
độ chân không rất cao và ở nhiệt
độ cao thấp khác nhau phỏng theo những
điều kiện trên mặt trăng, nơi mà
hết sự “oi bức” ban ngày (nóng đến
+110 độ C) lại tiếp đến sự
“lạnh giá” ban đêm (lạnh đến -120
độ C). Các cuộc thử nghiệm đă
thành công. Ít lâu sau, cả chuyến bay của
trạm tự động đă diễn ra tốt
đẹp: mẫu đất đá trên mặt trăng
đă được đưa về trái đất.
|
|