Ở buổi sung
sức - Cuộc du lăm về thế kỷ trước
- Nước chữa bênh ở suối Cacxbat - Cái
ǵ nhẹ hơn? - Bể vazơlin - Phi công
mặc áo gilê - Thuốc chữa bệnh thống
phong - Túng th́ phải tính - Không ch́m trong nước
- Không sợ giá rét cũng không sợ bỏng -
Đi sâu xuống Nam cực - Chất bôi trơn vĩnh
cửu - Ăn thủy tinh có ngon không?
Phần 1
Năm 1967, liti - nguyên tố đứng đầu
tiên trong số các kim loại trong Hệ thống
tuần hoàn của Đ.I. Menđeleep đă
kỷ niệm 150 năm ngày nó được t́m
ra. Lễ kỷ niệm này diễn ra lúc liti đang
ở buổi sung sức: hoạt động
của nó trong kỹ thuật hiện đại
thật là thú vị và nhiều mặt. Thế mà
các nhà chuyên môn vẫn cho rằng, liti vẫn hoàn
toàn chưa bộc lộ hết mọi khả năng
của ḿnh và họ tiên đoán cho nó một
tiền đồ rộng lớn. Nhưng, mời
bạn, chúng ta hăy thực hiện một cuộc
du lăm vào thế kỷ vừa qua, hăy ngó vào pḥng
thí nghiệm tĩnh mịch của nhà hóa học
Thụy Điển tên là Iohan Apgut Acfvetxơn
(Johann August Arvedson). Đây là nước Thụy
điển năm 1817.
...Đó là ngày mà nhà bác học tiến hành phân
tích khoáng vật petalit t́m được ở
mỏ Uto gần Stockholm. Ông đă kiểm tra
đi kiểm tra lại những kết quả phân
tích, nhưng cứ mỗi lần như vậy,
ông đều chỉ nhận được
tổng số các thành phần là 96%. Vậy th́
mất vào đâu 4%? Sẽ ra sao nếu như...?
Phải rồi, không c̣n nghi ngờ ǵ nữa: khoáng
vật này có chứa một nguyên tố mới mà
từ trước tới nay chưa có ai biết.
Acfvetxơn làm hết thí nghiệm này đến
thí nghiệm khác và cuối cùng đă đạt
được mục đích: một kim loại
kiềm mới đă được phát hiện.
Bởi v́, khác với những “người
họ hàng” gần gũi của ḿnh - kali và
natri mà lần đầu tiên được t́m
thấy trong các sản phẩm hữu cơ, nguyên
tố mới này được phát hiện trong
một khoáng vật, nên nhà bác học đă
quyết định gọi nó là liti (theo tiếng
Hy Lạp, “liteos” nghĩa là đá)
Ít lâu sau, Acfvetxơn lại t́m thấy nguyên
tố này trong các khoáng vật khác, c̣n nhà hóa
học Thụy Điển nổi tiếng Berzelius
th́ lại phát hiện ra nó trong nước khoáng
ở Cacxbat và ở Mariebat. Nhân đây cũng nói
thêm rằng, ngày nay, các nguồn nước
suối chữa bệnh ở Visi (nước Pháp)
sở dĩ nổi tiếng khắp nơi về
những tính chất chữa bệnh rất
tốt chính là v́ trong đó có các muối liti.
Năm 1818, nhà bác học người Anh là Humphry
Davy lần đầu tiên đă tách được
những hạt liti tinh khiết bằng cách điện
phân hiđroxit của nó, rồi đến năm
1855, một cách độc lập với nhau, nhà
hoa học Robert Bunsen người Đức và nhà
vật lư học Matissen người Anh đă
điều chế được liti nguyên
chất bằng cách điện phân liti clorua nóng
chảy. Đó là một kim loại mềm,
trắng như bạc, nhẹ hơn nước
gần hai lần. Về mặt này th́ liti không
gặp một đối thủ nào trong số các
kim loại: nhôm nặng hơn nó năm lần,
sắt - 15 lần, ch́ - 20 lần, c̣n osimi - 40
lần!
Ngay ở nhiệt độ trong pḥng, liti cũng
phản ứng mănh liệt với oxi và nitơ
của không khí. Bạn hăy thử để
một mẩu liti trong b́nh thủy tinh có nút mài
nhám. Mẩu kim loại này sẽ hút hết không
khí có trong b́nh: trong b́nh xuất hiện chân không
và áp suất khí quyển “ấn” vào nút
mạnh tới nỗi các bạn khó mà kéo nó ra
được. V́ vậy, bảo quản liti là
một việc khá phức tạp. Nếu như
natri chẳng hạn, có thể bảo quản
dễ dàng trong dầu hoả hoặc xăng, th́
đối với liti, không thể dùng cách ấy
được, v́ nó sẽ nổi lên và bốc
cháy ngay tức khắc. Để bảo quản
các thỏi liti, người ta thường d́m chúng
vào trong bể chứa vazơlin hoặc parafin,
những chất này bao quanh kim loại và không cho
nó bộc lộ tính “háu” phản ứng
của ḿnh.
Liti c̣n kết hợp mạnh mẽ hơn với
hiđro. Chỉ một lượng nhỏ kim
loại này cũng có thể liên kết với
một thể tích hiđrô rất lớn: trong 1
kilôgam liti hiđrua có 2.800 lít khí hiđro! Trong
những năm Chiến tranh thế giới
thứ 2, các viên phi công Mỹ đă dùng
những viên liti hiđrua làm nguồn hiđrô mang
theo bên ḿnh. Họ sử dụng chúng khi gặp
nạn ngoài biển: dưới tác dụng
của nước, các viên này phân ră ngay lập
tức, bơm đầy khí hiđro vào các phương
tiện cấp cứu như thuyền cao su, áo
phao, bóng-angten tín hiệu.
Các hợp chất của liti có khả năng hút
ẩm cực mạnh, điều đó khiến
cho chúng được sử dụng rộng răi
để làm sạch không khí trong tàu ngầm,
trong các b́nh thở trên máy bay, trong các hệ
thống điều ḥa không khí.
Bước vào thế kỷ XX, liti mới
được bắt đầu sử dụng
trong công nghiệp. C̣n trong gần một trăm năm
trước đó th́ chủ yếu người
ta dùng nó trong y học để làm thuốc
chữa bệnh thống phong.
Trong thời gian Chiến tranh thế giới
lần thứ nhất, nước Đức
rất cần thiết để sử dụng
trong công nghiệp. Do nước này không có
quặng thiếc nên các nhà bác học phải
cấp tốc t́m kim loại khác để thay
thế. Nhờ có liti nên vấn đề này
đă được giải quyết một cách
tốt đẹp: hợp kim của ch́ với
liti là một vật liệu chống ma sát
tuyệt với. Từ đó trở đi, các
hợp kim liti luôn gắn liền với các ngành
kỹ thuật. Đă có những hợp kim
của liti với nhôm, với berili, với đồng,
kẽm, bạc và với nhiều nguyên tố khác.
Những triển vọng hết sức to lớn
đă rộng mở cho các hợp kim của liti
với magiê - một kim loại nhẹ khác có tính
chất kết cấu rất tốt: nếu liti
chiếm ưu thế th́ hợp chất đó
sẽ nhẹ hơn nước. Nhưng rủi
thay, các hợp kim có thành phần như vậy
lại không bền vững, rất dễ bị
oxi hóa trong không khí. Từ lâu, các nhà bác học
đă ao ước tạo nên một sự
phối trí và một công nghệ bảo đảm
được tính bền lâu cho các hợp kim
liti - magiê. Các nhà khoa học ở Viện
luyện kim mang tên A. A. Baicôp thuộc Viện hàn
lâm khoa học Liên Xô đă giải quyết
được bài toán đó: bằng ḷ nồi
chân không nung bằng điện trong môi trường
khí trơ agon, họ đă điều chế
được hợp kim của liti với magie mà
không bị mờ xám trong không khí và nhẹ hơn
nước.
Nhiều tính chất quư báu của liti như
khả năng phản ứng cao, nhiệt độ
nóng chảy thấp (chỉ 180,5 độ c),
mật độ các hợp chất hóa học
của nó nhỏ, đă khiến cho nguyên tố này
được tham gia vào nhiều quá tŕnh công
nghệ trong luyện kim đen và luyện kim màu.
Chẳng hạn nó đóng vai tṛ chất khử
khí và khử oxi một cách xuất sắc - nó
xua đuổi các chất khí như nitơ, oxi ra
khỏi các kim loại đang nóng chảy. Nhờ
có liti mà cấu trúc của một số hợp
kim trở nên mịn hạt, do đó mà những
tính chất cơ học của chúng trở nên
tốt hơn. Trong sản xuất nhôm, liti
thực hiện rất tốt vai tṛ chất thúc
đẩy quá tŕnh. Pha thêm các hợp chất
của liti vào chất điện phân sẽ nâng
cao được năng suất của bể
điện phân nhôm; khi đó, nhiệt độ
cần thiết của bể sẽ giảm
xuống và tốn phí điện năng sẽ
giảm rơ rệt.
Trước kia, chất điện phân của
ăcquy kiềm chỉ gồm các dung dịch xút
ăn da (NAOH). Nhưng nếu pha thêm vào chất
điện phân này vài gam liti hiđroxit (LiOH) th́
tuổi thọ của ăcquy sẽ tăng lên ba
lần. Ngoài ra, khoảng nhiệt độ
của ăcquy cũng được mở
rộng thêm: nó không phóng điện ngay cả
khi nhiệt độ lên tới 40 độ C và
ở hai chục độ âm vẫn không bị
đông đặc. Chất điện phân không có
liti th́ không chịu đựng được
những thử thách như vậy. Nhật
Bản đă chế tạo được
loại ăcquy tí hon độc đáo dùng cho các
đồng hồ điện tử đeo tay:
bề dày của ăcquy chỉ bằng 34 micron,
nghĩa là mảnh hơn sợi tóc, trong đó,
cực dương là một màng liti cực
mỏng, c̣n cực âm th́ làm bằng titan đisunfit.
Thiết bị điện tinh vi này chịu đựng
được 2000 chu kỳ nạp và phóng điện,
mỗi lần nạp điện cho phép đồng
hồ làm việc từ 200 - 300 giờ. Các công tŕnh
sư của các hăng chế tạo ô tô cũng
đặt nhiều hy vọng không nhỏ vào liti.
Chẳng hạn, ở Mỹ người ta đă
chế tạo pin bằng liti dùng cho ô tô chạy
bằng điện năng. Loại xe này có
thể đạt tới tốc độ 100km/h và
có thể chạy hàng trăm km mà không cần
phải thay pin.
Một số hợp chất hữu cơ của
liti (stearat, panminat v. v... ) vẫn giữ nguyên
được những tính chất vật lư
của ḿnh trong khoảng nhiệt độ
rộng. Điều đó cho phép sử dụng
chúng làm nền cho các vật liệu bôi trơn
trong kỹ thuật quân sự. Chất bôi trơn
có chứa liti giúp cho các xe chạy trên mọi
địa h́nh đang làm việc ở Nam cực
thực hiện được các hành tŕnh vào sâu
trong lục địa này, nơi mà nhiệt độ
băng giá có khi thấp đến -80 độ
C. Chất bôi trơn chứa liti là trợ thủ
đắc lực cho những người đua
ô tô. Những người chủ của loại
xe ô tô “jiguli” tin chắc ở điều đó
nên không phải ngẫu nhiên mà họ gọi nó
là chất bôi trơn “vĩnh cửu”: Khi
mới bắt đầu sử dụng, chỉ
cần dùng nó để bôi trơn một lần
cho các chi tiết hay cọ xát của ô tô,
thế là nhiều năm sau không cần phải
lặp lại công việc ấy nữa.
Trong chúng ta chắc ai cũng đă nghe nói đến
những phép lạ mà những người iôga
Ấn Độ thường làm. Trước
mặt đám công chúng đầy kinh ngạc,
họ nhai chiếc cốc thủy tinh thành
những mảnh nhỏ chẳng khác ǵ ăn
chiếc bánh bích-quy b́nh thường, rồi
lại c̣n nuốt chúng với vẻ thích thú, như
thể trong đời họ chưa hề
được ăn một thức ǵ ngon hơn.
C̣n bạn đă từng nếm thử thủy
tinh chưa? “Câu hỏi thật quá vô lư! Tất
nhiên là chưa!”. Có lẽ bất cứ người
nào khi đọc này đều nghĩ như
vậy. Như thế là nhầm rồi đấy.
Thật ra th́ thủy tinh thông thường
vẫn ḥa tan trong nước. Tất nhiên là không
phải ở mức độ chẳng hạn như
đường, nhưng dù sao nó vẫn bị ḥa
tan. Những chiếc cân phân tích chính xác nhất
cho biết rằng, cùng với cốc nước
chè nóng, chúng ta c̣n uống khoảng một
phần vạn gram thủy tinh. Nhưng nếu khi
nấu thủy tinh, ta pha thêm một ít muối
lantan, muối ziriconi và muối liti th́ độ
hoà tan của nó trong nước sẽ giảm hàng
trăm lần. Thuỷ tinh sẽ rất bền
vững ngay cả đối với axit sunfuric.
Phần 2
[...] Ngọn lửa xanh - Chiếc vĩ cầm
số một - Kết quả của cuộc
bắn phá - Liti “nuốt” nơtron - Hai chục
nhà máy thủy điện Đniep - Ông già
dầu hỏa tốt bụng [...]
Hoạt động của liti trong ngành sản
xuất thủy tinh không phải chỉ bó hẹp
trong việc hạ thấp độ ḥa tan
của thủy tinh. Thủy tinh chứa liti
được đặc trưng bởi những
tính chất quang học rất quư giá, tính
chịu nhiệt tốt, suất điện
trở cao, mất mát điện môi ít. Đặc
biệt, liti c̣n tham gia vào thành phần của
thủy tinh dùng làm đèn h́nh trong các máy thu h́nh.
Nếu ta xử lư kính cửa sổ thông thường
trong các muối liti nóng chảy th́ trên bề
mặt của nó sẽ h́nh thành một lớp
bảo vệ: kính sẽ bền gấp đôi và
chịu đựng tốt hơn đối
với nhiệt độ cao. Pha thêm một lượng
nhỏ nguyên tố này cũng giảm được
rất nhiều nhiệt độ nấu của
thủy tinh.
Từ xa xưa, giọt sương được
dùng làm biểu tượng cho tính trong suốt.
Nhưng ngay cả những thứ thủy tinh trong
suốt như giọt sương cũng không
đáp ứng được nhu cầu của
kỹ thuật hiện đại. Kỹ thuật
hiện đại cần có những vật
liệu quang học không những để cho các
tia sáng nh́n thấy được bằng mắt
thường xuyên qua, mà c̣n phải để cho
các tia không nh́n thấy, chẳng hạn như tia
tử ngoại cũng xuyên qua được.
Với kính thiên văn thông thường, các nhà
vật lư thiên văn không thể thu nhận
được bức xạ của những thiên
hà ở rất xa. Trong số các vật liệu mà
bộ môn quang học biết đến th́ liti
clorua có độ trong suốt cao nhất đối
với tia tử ngoại. Các thấu kính làm
bằng các đơn tinh thể của chất này
cho phép các nhà nghiên cứu xâm nhập sâu thêm
rất nhiều vào những bí mật của Vũ
trụ.
Liti đóng vai tṛ không nhỏ trong việc sản
xuất các loại men sứ, men sắt, các
chất màu, đồ sứ và đồ sành có
chất lượng cao. Trong công nghiệp dệt,
một số hợp chất của nguyên tố này
được dùng để tẩy trắng và
cầm màu vải, c̣n một số chất khác
th́ dùng để nhuộm vải.
Các muối của liti rất quen thuộc với
các nhà chế tạo và sử dụng thuốc
nổ: chúng làm cho vệt đạn vạch
đường và pháo sáng có màu xanh lục - lam
rực rỡ.
Tṛ ảo thuật sau đây dựa trên khả năng
hỏa thuật của liti. Bạn hăy dùng que diêm
để đốt một cục đường
nhỏ, và sẽ chẳng có điều ǵ
xảy ra cả: đường bắt đầu
nóng chảy nhưng không cháy. C̣n nếu trước
đó mà bạn xát miếng đường vào tàn
thuốc lá th́ nó sẽ bốc cháy dễ dàng
với ngọn lửa màu xanh da trời rất
đẹp. Sở dĩ như vậy là v́ trong
thuốc lá cũng như trong nhiều thực
vật khác, hàm lượng liti tương đối
lớn. Khi đốt cháy thuốc là, một
phần các hợp chất của liti vẫn c̣n
lại trong tro tàn. Chính v́ thế mà ta làm
được tṛ ảo thuật đơn
giản này.
Nhưng tất cả những ǵ vừa kể
ở trên mới chỉ là những công việc
thứ yếu, những “nghề phụ”
của liti. Nó c̣n làm được những công
việc quan trong hơn. Đây muốn nói đến
ngành năng lượng học hạt nhân, ở
đó, có thể chẳng bao lâu nữa liti sẽ
bắt đầu đóng vai tṛ của một
trong những “cây đàn vĩ cầm số
một”. Các nhà bác học đă xác định
được rằng, hạt nhân của đồng
vị liti-6 có thể dễ bị nơtrôn phá
vỡ. Khi hấp thụ nơtrôn, hạt nhân
của liti trở nên kém bền vững và bị
phân ră, kết quả là hai nguyên tử mới
sẽ h́nh thành đó là khí trơ nhẹ heli và
hiđrô siêu nặng - triti - cực kỳ
hiếm. Ở nhiệt độ rất cao, các
nguyên tử triti và đơteri (một đồng
vị khác của hidro) sẽ kết hợp
với nhau. Quá tŕnh đó kèm theo sự giải
phóng một lượng năng lượng
khổng lồ mà thường được
gọi là năng lượng nhiệt hạch.
Các phản ứng nhiệt hạch cực kỳ
mănh liệt sẽ xảy ra khi dùng nơtron
bắn phá liti đơteri - một hợp
chất của đồng vị liti-6 với
đơteri. Chất này được dùng làm
nguyên liệu hạt nhân trong các ḷ phản
ứng liti, là những ḷ mà so với những ḷ
phản ứng urani th́ có nhiều ưu điểm
hơn: liti dễ kiếm và rẻ tiền hơn
nhiều so với urani, c̣n khi phản ứng th́
không tạo ra các sản phẩm phân hạch có tính
phóng xạ và quá tŕnh phản ứng dễ điều
chỉnh hơn.
Liti-6 có khả năng bắt giữ các nơtron
chậm khá tốt, đó là cơ sở để
sử dụng nó làm chất điều tiết cường
độ các phản ứng diễn ra ngay cả
trong các ḷ phản ứng urani. Nhờ tính
chất này mà đồng vị liti-6 c̣n
được sử dụng trong các lá chắn
chống bức xạ và trong các bộ pin nguyên
tử có thời hạn sử dụng lâu dài.
Trong tương lai không xa, liti - 6 rất có
thể sẽ trở thành chất hấp thụ nơtron
chậm trong các khí cụ bay dùng năng lượng
nguyên tử.
Cũng như một số kim loại kiềm khác,
liti được sử dụng làm chất
tải nhiệt trong các thiết bị hạt nhân.
Ở đây có thể dùng một đồng
vị dễ kiếm hơn của nó, đó là
liti-7 (trong liti thiên nhiên, đồng vị này
chiếm khoảng 93%). Khác với “người
em” nhẹ hơn của ḿnh, đồng vị này
không thể dùng làm nguyên liệu để
sản xuất triti, v́ vậy mà nó không
được quan tâm tới trong kỹ thuật
nhiệt hạch. Nhưng với vai tṛ là chất
tải nhiệt th́ nó lại tỏ ra rất
đắc lực. Nhiệt dung và độ
dẫn nhiệt cao, nhiệt độ của
trạng thái nóng chảy nằm trong một
khoảng rộng, độ nhớt không đáng
kể và mật độ nhỏ - đó là
những điều giúp nó hoàn thành tốt
nhiệm vụ này.
Trong thời gian gần đây, kĩ thuật tên
lửa bắt đầu dành cho liti những địa
vị quan trọng. Muốn vượt qua lực
hút của trái đất để vượt lên
khoảng không gian ngoài vũ trụ cần
phải chi phí rất nhiều năng lượng.
Chiếc tên lửa từng đưa con tàu
trở nhà du hành vũ trụ đầu tiên trên
thế giới Iuri Gagarin lên quỹ đạo có
sáu động cơ với công suất tổng
cộng là 20 triệu mă lực! Đó là công
suất của hai chục nhà máy thủy điện
cỡ như Nhà máy thủy điện Đniep.
Tất nhiên, việc lựa chọn nhiên liệu
cho tên lửa là một vấn đề cực
kỳ quan trọng. Cho đến nay, dầu
hỏa (đúng là dầu hỏa già cả và
tốt bụng) được oxi hóa bởi oxi
lỏng vẫn được coi là nhiên liệu
hữu hiệu nhất. Khi đốt nhiên
liệu này, năng lượng phát ra lớn
gấp hơn 1,5 lần so với khi cho nổ cũng
một lượng như vậy loại thuốc
nổ Nitroglixerin là loại thuốc nổ
mạnh nhất.
Phần 3
[...] Liti chống chọi với... liti - “Keo
hạt nhân” - Tinh thể từ bang Nam Dakota -
“Vừng ơi, hăy mở ra” - Món thịt rán
đáng ngờ.
Việc sử dụng nhiên liệu kim loại có
thể có những triển vọng tuyệt
vời. Lần đầu tiên cách đây hơn
nửa thế kỷ, các nhà bác học Xô
-viết nổi tiếng là F. A. Txanđer và Iu. V.
Conđrachiuk đă khởi xướng lư
thuyết và phương pháp sử dụng kim
loại làm nhiên liệu cho động cơ tên
lửa. Liti là một trong số những kim
loại thích hợp nhất cho mục đích này
(chỉ có berili mới có thể “huênh hoang”
về suất tỏa nhiệt lớn). Ở
Mỹ người ta đă công bố những phát
minh về nhiên liệu rắn dùng cho tên lửa
trong đó chứa từ 51 đến 68% liti kim
loại.
Một điều đáng chú ư là trong quá tŕnh làm
việc của các động cơ tên lửa,
liti lại phải chống chọi lại
với... liti. Là một thành phần của nhiên
liệu, nó cho phép sản sinh ra nhiệt độ
rất cao, c̣n các vật liệu gốm chứa
liti (chẳng hạn như stupalit) có tính chịu
nhiệt cao th́ được dùng làm lớp
phủ ống phun và buồng đốt để
bảo vệ chúng khỏi bị nhiên liệu liti
phá hủy.
Trong thời đại chúng ta, kĩ thuật
đă làm ra nhiều vật liệu tổng
hợp đa dạng - các polime. Chúng được
sử dụng một cách thành công để thay
thế thép, đồng thau, thủy tinh. Tuy nhiên,
các nhà công nghệ đôi lúc cũng gặp
những khó khăn lớn khi mà việc chế
tạo một số những sản phẩm đ̣i
hỏi họ phải liên kết các polime với
nhau hoặc với các vật liệu khác.
Chẳng hạn, polime teflon chứa flo - một
chất phủ chống ăn ṃn rất tuyệt
diệu - trong một thời gian dài vẫn không
được sử dụng trong thực tiễn
chỉ v́ nó không chịu bám vào kim loại. Các
nhà bác học Xô Viết đă hoàn chỉnh
được một công nghệ hàn hạt nhân
rất độc đáo để hàn gắn các
polime với các vật liệu khác. Các bề
mặt cần hàn được bôi một
lớp mỏng các hợp chất của liti
hoặc bo; các hợp chất này được dùng
làm lớp “keo hạt nhân” đặc biệt.
Khi dùng nơtron chiếu vào lớp keo này th́
sẽ sinh ra các phản ứng hạt nhân kèm theo
sự giải phóng một năng lượng
lớn, nhờ vậy mà sau một khoảng
thời gian cực ngắn (chưa đến
một phần tỷ giây), trong các vật
liệu sẽ xuất hiện các vi đoạn có
nhiệt độ hàng trăm, thậm chí hàng ngàn
độ. Nhưng cũng sau những khoảnh
khắc này, các phân tử ở các lớp
tiếp giáp đă kịp dịch chuyển và
đôi khi c̣n kịp tạo ra những mối liên
kết hóa học mới với nhau - quá tŕnh hàn
hạt nhân diễn ra như vậy.
Thông thường, các nguyên tố nằm ở góc
trên cùng bên trái của bảng Menđeleep đều
phổ biến rộng răi trong thiên nhiên. Tuy
vậy, khác với đa số các “bạn láng
giềng” của ḿnh - natri, kali, magie, canxi, nhôm, là
những nguyên tố có nhiều trên hành tinh
của chúng ta, liti lại tương đối
hiếm. Trong thiên nhiên chỉ có khoảng ba
chục khoáng vật chứa nguyên tố quư báu này.
Hợp chất thiên nhiên chủ yếu của
liti là spođumen. Các tinh thể của khoáng
vật này có h́nh dạng tựa như những
thanh tà vẹt đường sắt hoặc thân
cây, đôi khi đạt đến kích thước
khổng lồ: tại bang Nam Dakota (nước
Mỹ) đă t́m thấy một tinh thể dài hơn
15 m và nặng hàng chục tấn. Tại các
mỏ ở Mỹ đă phát hiện ra các
biến thể của spođumen có màu xanh
ngọc bích và màu tím phớt hồng rất
đẹp. Đó là các khoáng vật hiđenit và
cunxit rất quư.
Đá pecmatit dạng granit có thể giữ
một vai tṛ to lớn trong việc dùng làm nguyên
liệu để sản xuất liti. Người
ta dự tính rằng, trong 1 kilômét khối granit có
tới hơn một trăm ngàn tấn liti. Đó
là một lượng lớn hơn rất
nhiều so với lượng liti khai thác
được hàng năm ở tất cả các
nước cộng lại. Trong các kho tàng granit, bên
cạnh liti c̣n có niobi, tantali, ziricon, thori, urani, neođim,
xezi, xeri, prazeođim và nhiều nguyên tố
hiếm khác. Nhưng làm thế nào để
bắt được đá granit phải chia
sẻ của cải của nó với con người?
Các nhà bác học đă ra sức t́m ṭi và
nhất định sẽ sáng tạo ra những
phương pháp tựa như câu thần chú
“Vừng ơi! Hăy mở ra!”, cho phép con người
mở cửa các kho báu granit.
Để kết thúc câu chuyện về liti, chúng
tôi xin kể một chuyện vui, trong đó nguyên
tố này đă đóng vai tṛ rất quan
trọng. Năm 1891, anh sinh viên vừa tốt
nghiệp trường Đại học tổng
hợp Havard ở Mỹ tên là Robert Wood (Robert Wood)
(sau này trở thành nhà vật lư học nổi
tiếng) đă đến Bantimo để nghiên
cứu hóa học tại trường đại
học tổng hợp địa phương. Khi
đến ở trong khu nhà trọ của sinh viên,
Wood nghe đồn rằng, bà chủ h́nh như
vẫn làm món thịt rán buổi sáng... bằng
những miếng thịt góp nhặt từ
những đĩa thừa lại từ bữa trưa
ngày hôm trước. Nhưng làm thế nào để
chứng minh điều đó?
Vốn là người rất thích t́m lời
giải độc đáo đồng thời
lại đơn giản cho mọi bài toán,
lần này, Wood cũng không làm trái với
những nguyên tắc của ḿnh. Một hôm, trong
bữa ăn chưa người ta dọn ra món
bít tết,
anh bèn để thừa lại trên đĩa vài
miếng thịt khá to sau khi rắc lên đó
một ít muối liti clorua - một chất hoàn toàn
không độc, bề ngoài và mùi vị rất
giống muối ăn b́nh thường. Ngày hôm
sau, những viên thịt rán trong bữa ăn sáng
của sinh viên đă được đem “thiêu”
trước khe hở của kính soi quang phổ.
Vạch đỏ của quang phố vốn đặc
trưng cho liti đă cho một kết luận
dứt khoát: bà chủ nhà trọ quá keo kiệt
đă bị vạch mặt. C̣n Ut th́ măi
nhiều năm sau vẫn thấy thích thú mỗi
khi hồi tưởng lại cuộc thực
nghiệm t́m vết của ḿnh.
|