|
Món quà của các quả đồi
ở Anatolia - Nhóm “Thất hùng” - Thời đại
đồ đá rời khỏi vũ đài - Cái
nồi từ một ngôi mộ - Hefet làm nghề
ǵ?
Hồi đầu những năm 50, nhà khảo
cổ học người Anh Jamơ Melat (James
Mellaart) đă triển khai các cuộc khai quật
trên cao nguyên Anatolia ở Thổ Nhĩ Kỳ.
Hiện vật t́m được không nhiều và
nhà bác học quyết định ngừng
việc t́m kiếm. Khi từ giă Anatolia, Melat không
biết liệu ḿnh có lúc nào đó sẽ
trở lại đây nữa hay không. Tất nhiên
ông cũng không thể nghĩ rằng, chỉ vài
năm sau đó, tại chính nơi đây, ông
lại may mắn hoàn thành một phát kiến mà
các nhà chuyên môn đánh giá như một sự
kiện làm chấn động giới khảo
cổ học thế giới. Thỉnh thoảng,
đột nhiên trong trí nhớ của nhà khảo
cổ học lại hiện lên hai quả đồi
lớn ở thung lũng sông Konya mà ông chưa
hề đụng đến. Một điều ǵ
đó đă buộc ông hồi tưởng
lại chốn này, nơi mà những quả đồi
có tên là Chatan - Hiuc nhô lên giữa thảo nguyên
đất mặn.
Thế là mùa thu năm 1958, Melat lại một
lần nữa đến đây và cùng với các
bạn đồng nghiệp bắt tay vào các
cuộc khai quật quả đồi phía đông
của Chatan - Hiuc. Và điều ǵ đă xảy
ra? Các hiện vật mới tới tấp
hiện ra, hết cái này đến cái khác.
Quả đồi h́nh như đă vội vă
từ giă bí mật của ḿnh mà nó đă
giấu kín từ nhiều thế kỷ. Th́ ra có
một thời gian, đây đă là nơi cứ
trú của những người trồng trọt và
chăn nuôi cổ xưa. Phép phân tích cacbon phóng
xạ đă cho phép xác định tuổi
của di chỉ này: khoảng 6500 - 5700 năm trước
công nguyên. 8500 năm! Tuổi tác đáng kính
đến thế của Chatan - Hiuc không thể không
gây nên mối quan tâm đặc biệt đối
với di tích của thời đại đồ
đá mới này.
Ngay sau đó, các nhà khảo cổ học đă
triển khai công việc tại đây một cách
có hệ thống, và vận may đă không
bắt họ phải chờ đợi lâu:
họ đă t́m thấy những túp lều c̣n
được bảo tồn khá tốt, những
bếp lửa gia đ́nh, những đồ dùng
hàng ngày. Chatan - Hiuc c̣n tỏ ra rất dồi dào
về các tác phẩm nghệ thuật của các
nghệ nhân cổ xưa: những bức tranh màu
trên tường, tranh đắp nổi, những
bức tượng nhỏ xinh xắn và những
đồ dùng bằng gốm. Nhưng có giá
trị khoa học lớn nhất có lẽ không
phải là chúng, mà là những vật nhỏ xíu
bằng đồng t́m được ở
một trong những tầng cuối cùng (có nghĩa
là ở những tầng cổ nhất): những
chiếc dùi nhỏ, những hạt cườm và
những mẩu ống bé tí dùng làm đồ
trang trí cho quần áo phụ nữ. Những
hạt đồng nhỏ xíu đă lên gỉ xanh
này là những sản phẩm kim loại cổ
nhất t́m thấy được trên hành tinh chúng
ta lúc bấy giờ.
Ngay sau đó, các nhà khảo cổ học đă
triển khai công việc tại đây một
cách có hệ thống, và vận may đă không
bắt họ phải chờ đợi lâu:
họ đă t́m thấy những túp lều c̣n
được bảo tồn khá tốt, những
bếp lửa gia đ́nh, những đồ dùng
hàng ngày. Chatan - Hiuc c̣n tỏ ra rất dồi dào
về các tác phẩm nghệ thuật của các
nghệ nhân cổ xưa: những bức tranh màu
trên tường, tranh đắp nổi, những
bức tượng nhỏ xinh xắn và những
đồ dùng bằng gốm. Nhưng có giá
trị khoa học lớn nhất có lẽ không
phải là chúng, mà là những vật nhỏ xíu
bằng đồng t́m được ở
một trong những tầng cuối cùng (có nghĩa
là ở những tầng cổ nhất): những
chiếc dùi nhỏ, những hạt cườm
và những mẩu ống bé tí dùng làm đồ
trang trí cho quần áo phụ nữ. Những
hạt đồng nhỏ xíu đă lên gỉ xanh
này là những sản phẩm kim loại cổ
nhất t́m thấy được trên hành tinh
chúng ta lúc bấy giờ.
Lúc đầu, Melat giả định rằng,
đồng mà dân cư ở đây đă dùng
để làm các đồ tạp phẩm của
họ có nguồn gốc tự sinh. Nhưng Chatan
- Hiuc đă dành cho các nhà khoa học một điều
bất ngờ nữa: công nhân khai quật đă
đụng phải một cục xỉ đồng
ở những lớp đất dưới cùng
này. Thế là đă rơ, những người
thợ lành nghề ở Chatan - Hiuc không những
đă biết chế tác đồng tự sinh mà
c̣n biết luyện kim loại này từ
quặng.
Phát hiện này có ư nghĩa to lớn đối
với khoa học. Mặc dù chẳng bao lâu sau
các sự kiện vừa kể trên, về phía
đông triền sông Konya, ở thượng
nguồn sông Tigris, một nhóm các nhà khảo
cổ học Mỹ và Thổ Nhĩ Kỳ đă
t́m thấy vết tích của một điểm
dân cư cổ xưa với những dấu
vết của đồng và quặng đồng;
điểm dân cư này c̣n cổ hơn Chatan -
Hiuc khoảng năm thế kỷ. Chính khu đồi
gồm hai ngọn ở cao nguyên Anatolia này - khu
đồi từng đẩy ranh giới giả
định sự xuất hiện nghề
luyện kim trên trái đất lùi về quá
khứ xa xưa ba ngàn năm, đă đi vào
lịch sử của khoa cổ học như
một trong những trang tuyệt diệu nhất
của nó.
Vậy tại sao chính đồng lại là kim
loại đầu tiên lọt vào tay con người.
Tại sao nó lại có vinh dự đóng vai tṛ
cực kỳ quan trọng trong sự phát triển
của xă hội loài người ?
Cùng với vàng, bạc, sắt, thiếc, ch́ và
thủy ngân, đồng thuộc nhóm “thất
hùng” gồm bảy kim loại mà con người
biết đến từ thời cổ xưa.
trong số bảy kim loại này, chỉ có ba -
vàng, bạc và đồng, là bắt gặp trên
trái đất ở trạng thái tự sinh. Nhưng
vàng và bạc ít khi rơi vào tay tổ tiên chúng
ta, c̣n đồng th́ hay gặp hơn, hơn
nữa, đôi khi gặp ở dạng những
khối tự sinh rất lớn. Chẳng hạn,
giữa thế kỷ trước, tại vùng
Hồ lớn (Bắc Mỹ) đă t́m thấy
một mảnh của một tảng đồng
lớn có khối lượng khoảng 400
tấn. Trên bề mặt của khối kim
loại này c̣n lưu lại những dấu
vết của ŕu đá mà ngay ở thời đại
đồ đá mới, con người đă
dùng để đẽo các cục đồng
từ tảng này ra nhằm sử dụng cho các
nhu cầu của ḿnh.
C̣n nhu cầu về kim loại này th́ không
nhỏ. Với tư cách là vật liệu để
làm ra các công cụ lao động, vũ khí,
đồ dùng thường ngày, đồng có
những ưu điểm trội hơn hẳn so
với đá. Điều đó thật quá rơ
ràng đến nỗi những người
trồng trọt, chăn nuôi hoặc săn
bắn ở thời xa xưa không thể không
nhận thấy. Hơn nữa, kim loại này tương
đối dễ thay đổi h́nh dáng, có
thể đập bẹt, mài sắc cạnh,
đục lỗ. Đồng đă bắt đầu
đẩy lùi vị trí của đá và đă
nhanh chóng đi vào cuộc sống của người
nguyên thủy: thời đại đồ đá
đă giao phó lại quyền hành cho thời đại
đồ đồng.
Càng ngày càng tích lũy được nhiều
kinh nghiệm gia công đồng nên con người
đă đạt được nhiều thành
tựu lớn trong việc này. Những sản
phẩm bằng đồng mà những người
thợ thời cổ đại c̣n để
lại cho chúng ta đă nói lên điều đó.
Trong ngôi mộ của một vị faraon Ai
Cập từng trị v́ vào khoảng giữa
thiên niên kỷ thứ ba trước công nguyên
đă t́m thấy một cái nồi lớn
được g̣ từ một tấm đồng
dẹt.
Tiếp theo đó, con người đă biết
cách nấu chảy đồng và đúc các đồ
dùng đơn giản bằng đồng. Mặc
dầu, vật đúc bằng đồng cổ xưa
nhất mà các nhà khảo cổ học biết
được là chiếc ŕu đă xuất
hiện từ sáu ngàn năm trước đây,
song có lẽ là con người chỉ thực
sự nắm vững kỹ thuật đúc sau khi
học xong một “khóa” về gia công nóng kim
loại.
Đến lúc bấy giờ, tại nhiều nơi
trên trái đất, con người đă khai thác
được quặng đồng và dùng nó
để luyện đồng. Các mỏ quặng
đồng ở đảo Síp có tiếng tăm
đặc biệt, mà như người ta
vẫn giả định, tên La tinh của đồng
là “Cuprum” có liên quan với tên của ḥn đảo
này. C̣n chữ Nga “Medb”, th́ theo ư kiến
của một số nhà bác học, xuất phát
từ chữ “CMIDA” - các bộ lạc cổ xưa
từng sống ở phần đất châu Âu
thuộc lănh thổ Liên Xô đều dùng từ
này để gọi chung mọi thứ kim
loại.
Có thể gặp những đoạn nói về
đồng trong các nguồn tư liệu sách
vở cổ xưa nhất. Trong tác phẩm
“Iliat”, Homer mô tả vị thần - người
lao động Hefet làm nghề thợ rèn đă
chế tạo cho người anh hùng Asin (Achilles)
trong cuộc chiến tranh Troa một tấm
mộc chiến thắng bằng đồng như
sau: “Chàng vung tấm đồng bất khả
xâm phạm vào ngọn lửa đang bốc ngùn
ngụt...”. Theo các truyền thuyết cổ Hy
Lạp, con trai của thần đất là Promete
đă lấy trộm lửa của các vị
thần rồi trao cho con người nên chàng
bị thần Zớt ra lệnh xiềng chân vào
núi đá bằng một sợi xích đồng.
Cái b́nh t́m được ở gần Baghdad -
Sự mất mát không thể bù đắp
được - Những sự kiện ở
cảng - Theo chỉ thị của faraon - Kỳ
quan của thế giới biến thành đống
phế liệu - Để làm bức tượng
Thần tự do - Những năng khiếu âm
nhạc - Các thầy cúng làm nghề giả kim
thuật - "Hăy lấy pho-mát dê..." -
Những quầng mắt.
Thời cổ, đồng được biết
đến không những ở trên trời mà c̣n
ở dưới mặt đất đầy
“tội lỗi” nữa, hơn nữa, thứ
kim loại này đôi khi bị gán một vai tṛ hơi
khác thường đối với thời
bấy giờ. Trong những năm 30 của
thế kỷ chúng ta, khi khai quật ở gần
thành phố Baghdad, các nhà khảo cổ học người
Đức đă t́m thấy được
một cái b́nh bằng đất sét rất
kỳ lạ, bên trong b́nh có một cái ống
h́nh trụ rỗng bằng đồng cùng
với một thanh sắt đă han gỉ
nặng. Sau khi xem xét vật t́m được
này, các nhà nghiên cứu đă đi đến
một kết luận táo bạo: họ cho
rằng, người Ảrập cổ xưa
đă rót dung dịch kiềm vào b́nh này để
làm nguồn điện, c̣n những người
thợ kim hoàn xưa kia đă dùng nó để
mạ vàng lên các đồ vật bằng kim
loại. Nếu giả thuyết này đúng th́
có nghĩa là bộ pin điện đầu tiên
đă được các “nhà kỹ thuật
điện” vùng Lưỡng Hà chế tạo ra
từ hai ngàn năm trước khi có những
thí nghiệm của Galvani và Volta.
Theo ư kiến của các nhà Ai Cập học,
ở thiên niên kỷ thứ hai trước Công
nguyên, nghề luyện đồng ở Ai Cập
đă đạt đến quy mô to lớn:
thời bấy giờ đă có hơn một ngàn
ḷ luyện đồng hoạt động ở nước
này. Tuy nhiên, rất nhiều tư liệu
lịch sử đă cho thấy, việc sản
xuất kim loại này sau đó đă giảm
xuống một cách đột ngột. Lẽ nào
người Ai Cập lại không cần đến
đồng nữa? Gần đây người ta
đă lư giải được điều bí
ẩn đó: các cuộc khai quật khảo
cổ học đă cho biết rằng, “công
nghiệp” luyện đồng ở Ai Cập
thời cổ đă trải qua... một cuộc
khủng hoảng năng lượng từng bao
trùm cả khu vực này vào thời xa xưa
ấy. Những cây cọ và cây keo trắng
mọc ở vùng ven bờ sông vùng châu thổ
sông Nile vốn được dùng làm chất
đốt cho các ḷ luyện đồng đă
bị chặt trụi hoàn toàn và bị đốt
sạch. Tổn thất này quả thật là
không thể bù đắp được, và
việc luyện đồng đành phải
ngừng hẳn.
Đồng đă có cống hiến to lớn vào
việc phát triển nền văn hóa vật
chất, nhưng hợp kim của đồng
với thiếc - gọi là đồng đỏ
- c̣n được vinh dự đóng vai tṛ quan
trọng hơn. Hợp kim tuyệt diệu này có
hàng loạt ưu điểm so với đồng
nguyên chất: độ cứng và độ
bền cao, độ đàn hồi lớn, làm lưỡi
cắt rất sắt, ít bị ăn ṃn, dễ
rót đầy khuôn đúc. Tiếp sau thời
đại đồ đồng kéo dài không lâu,
thời đại đồng đỏ đă
kế tục ngự trị trên hành tinh chúng ta.
Có lẽ con người đă biết đến
đồng đỏ từ thiên niên kỷ
thứ tư trước Công nguyên: các công
cụ cổ nhất bằng đồng đỏ
được t́m thấy ở Iran, Thổ Nhĩ
Kỳ, Lưỡng Hà đă được các
nhà bác học xác định tuổi như
vậy. Tuy nhiên, tên gọi của đồng
đỏ th́ măi sau này mới có. Thời xa xưa,
một trong những thương cảng lớn
nhất của nước Italia là Brinđizi (xưa
kia gọi là Bruđizi); đây là điểm
cuối của con đường Appia là con
đường dùng để chở đồng
khai thác được từ các mỏ trong nước
đến cảng. Từ đây, kim loại này
lên đường sang các nước khác. Nhưng
đồng ít khi được tinh khiết, mà
thường ở dạng hợp kim với
thiếc. Có thể thu được hợp kim như
vậy một cách tự nhiên trong quá tŕnh
nấu luyện, bởi v́ tại các mỏ mà
từ đó đồng “bước vào đời”,
thường có thiếc chung sống với đồng.
Ngoài ra, các tàu buôn Hy Lạp chuyên chở
thiếc từ quần đảo Britania thường
xuyên ghé qua cảng này. Hoàn toàn có thể là các
nhà luyện kim ở đây nhận thấy
rằng, hợp kim của hai kim loại này mà
đường đi của chúng giao nhau tại
Brunđizi có những tính chất rất tốt
nên đă t́m cách sản xuất thật
nhiều. Chẳng bao lâu, người ta đă
gọi hợp kim này - “đồng từ Brunđizi”
(theo tiếng La tinh là “es Brundisi”), là đồng
đỏ.
Tại một ngôi mộ Ai Cập thuộc
hồi giữa thiên niên kỷ thứ hai trước
công nguyên, người ta phát hiện được
một bức tranh rất đáng chú ư; bức
tranh này mô tả quy tŕnh công nghệ của
việc sản xuất các vật đúc bằng
đồng đỏ. Ba lao công (hẳn là ba nô
lệ, v́ có một giám thị cầm gậy
đứng trông coi họ) đưa kim loại
vào ḷ để nấu luyện. C̣n thấy
những nồi nung, những đống than
gỗ, những sọt đựng than để
đưa vào “xưởng đúc”. Hai lao công
thụt bễ, người thứ ba cầm “que
cời ḷ” để điều khiển và duy
tŕ ngọn lửa trong ḷ. Hai người dùng
những cây đ̣n để nhấc nồi
nấu đồng đỏ chảy ra khỏi ḷ
và khênh đến khuôn đúc - việc rót kim
loại diễn ra ở đây. Nhà họa sĩ
thời xưa c̣n viết lời ghi chú kèm theo
bức tranh: những ḍng chữ tượng h́nh
giải thích rằng, bức tranh diễn tả
việc đúc các cánh cửa lớn bằng
đồng đỏ cho một ngôi đền,
ngoài ra, theo chỉ thị của faraon th́ kim
loại này được đưa từ Xyri
về.
Từ những thời xa xưa, các nhà điêu
khắc đă nghĩ đến đồng đỏ.
Thời gian c̣n để lại cho chúng ta
những tác phẩm điêu khắc tuyệt
mỹ bằng đồng đỏ đă
từng ra đời từ nhiều thế kỷ
trước đây: “Marcus aurelius”, “Người
ném đĩa”, “Thần hoang dă đang
ngủ” v. v... Một số pho tượng
bằng đồng đỏ có kích thước
khổng lồ. Chẳng hạn, hồi đầu
thế kỷ thứ III trước công nguyên
đă xuất hiện bức tượng “Người
khổng lồ Rođot” - một thắng
cảnh của bến cảng cổ xưa trên
đảo Rođot trong biển Êgie. Bức tượng
thần mặt trời Helios cao 32 mét này đứng
sừng sững ở lối vào bến cảng
được coi là một trong bảy kỳ quan
của thế giới. Tiếc thay, tác phẩm
đồ sộ của nhà điêu khắc Kharot
(Chares) chỉ tồn tại được hơn
nửa thế kỷ: một trận động
đất đă phá đổ bức tượng
và nó bị đem bán cho người Xyri như
một đống “đổ nát”.
Người Nhật Bản cũng rất điêu
luyện trong ngành đúc đồng đỏ.
Bức tượng Phật ở chùa Tođaizi
dựng hồi thế kỷ thứ VIII nặng hơn
400 tấn. Để đúc được
bức tượng có một không hai này, đ̣i
hỏi phải có tài nghệ tuyệt vời và
tŕnh độ kỹ thuật xuất sắc trong
nghề đúc.
Cả về sau này, đồng và đồng
đỏ vẫn tiếp tục phục vụ
nghệ thuật điêu khắc một cách trung
thành. Hẳn bạn vẫn c̣n nhớ bức tượng
“Kỵ sĩ đồng” nổi tiếng - tác
phẩm bất hủ của nhà điêu khắc
người Pháp ở thế kỷ thứ XVIII
là Etienne Morice Falconet. Tượng Thần Tự do
cao 46 mét do nhà điêu khắc người Pháp là
Frédéric Auguste Bartholdi dựng lên hồi cuối
thế kỷ trước vẫn đứng
sừng sững ở lối vào bến cảng
New York. Pho tượng này đă tiêu tốn
hết 225 tấn đồng tấm.
Ở tuổi “thiếu thời”, đồng
đỏ đă sớm bộc lộ những năng
khiếu âm nhạc và đă măi măi gắn bó
ḿnh với tiếng chuông. Người ta đă
thử đúc chuông bằng đủ thứ kim
loại và hợp kim - bằng thép, gang, đồng
thau, nhôm, thậm chí bằng bạc và vàng - nhưng
không một vật liệu nào trong số đó
có thể tranh tài với đồng đỏ
về cường độ và độ ngân dài
của âm thanh. Rất nhiều chuông làm bằng
đồng đỏ từ thời xưa vẫn
tồn tại cho đến ngày nay - từ
những cái chuông tí hon cho đến những cái
chuông cấp báo khổng lồ. Suốt nhiều
thế kỷ, những sự kiện quan trọng
nhất trong lịch sử của chúng ta đă
gắn liền với tiếng chuông - cả lúc
lo âu lẫn khi vui sướng, cả trong hội
hè cũng như những ngày đau buồn.
Ở một số dân tộc, đến nay
vẫn c̣n lưu truyền những truyền
thuyết về cái chuông khiến người nghe
phải xót xa thương tiếc. Chẳng
hạn, ở Triều Tiên, ngay từ thế
kỷ thứ VIII người ta đă đúc
một cái chuông lớn, nặng 48 tấn, phát ra
âm thanh trong trẻo khác thường. Theo
truyền thuyết, v́ muốn cứu người
cha khỏi nhiều điều rủi ro, con gái người
thợ đúc đă gieo ḿnh vào kim loại nóng
chảy và tiếng kêu thảm thiết của
nàng trước khi chết đă ngưng đọng
lại trong tiếng chuông. Nhưng thông thường
những người thợ đúc đă xoay
xở được mà không cần những
sự hy sinh như vậy: bằng cách thay đổi
thành phần của đồng đỏ và kích
thước của vật đúc, họ có
thể làm ra những cái chuông với “hàng trăm
thứ âm thanh” ngân lên trong những ngày
chiến thắng và trong những giờ phút gian
nan của dân tộc.
Bên cạnh đồng đỏ, từ thời
xa xưa con người c̣n biết một hợp
kim tuyệt diệu khác nữa của đồng
- đó là đồng thau: trong đó, kẽm
nhập vai “bạn đồng minh” của đồng.
Các thầy cúng ở Ai Cập cổ xưa đă
để lại cho chúng ta những điều
nói về hợp kim này. Mà có lẽ họ cũng
là những nhà giả kim thuật đầu tiên
trong lịch sử khoa học: các bản chép tay
t́m thấy được khi khai quật một
ngôi mộ ở Fiva có nói đến những bí
quyết để “điều chế” vàng
từ đồng. Theo sự khẳng định
của các tác giả những “chuyên khảo”
hóa học linh thiêng này th́ chỉ cần pha thêm
kẽm vào đồng, thế là đồng
biến ngay thành “vàng” (nh́n bề ngoài th́
quả thật là đồng thau hơi giống
vàng). Thực ra, thứ “vàng” này có một nhược
điểm: trên bề mặt của nó thường
xuất hiện những vết “lở loét” và
những đốm “phát ban” (khác với vàng,
đồng thau không thể chống chọi
với tác động tác hại của oxi). Theo
lời các ông thầy cúng th́ muốn loại
trừ “căn bệnh” này, phải kiên tŕ
cầu nguyện và cần phải biết
những câu thần chú có hiệu lực mạnh
mẽ.
Các hợp chất của đồng cũng có
công dụng đa dạng ngay từ thời xưa.
Khi phân tích các bức tranh cổ trên tường,
các nhà hóa học đă phát hiện thấy có
đồng axetat trong đó: nó được
dùng để tạo nên màu lục sáng. Công
thức pha chế hợp chất này ở nước
Nga thời xưa chẳng có ǵ phức tạp:
“Hăy lấy pho - mát dê và mật ong nhạt cho
vào lọ đồng, rồi pha thêm vụn đồng
và phủ vụn đồng lên trên. Hăy gắn
nắp lọ lại bằng bột nhăo rồi
đặt lọ lên bếp ḷ trong hai tuần”.
Chỉ có thế thôi! Không ai biết những người
La Mă xưa kia đă tạo ra chất màu xanh
lục này như thế nào, nhưng người
ta đă t́m thấy nó ở các bức vẽ
trên tường các nhà tắm của hoàng đế
La Mă Tit (Titus), cũng như trong các bức bích
họa ở thành phố cổ Pompei từng
bị chôn vùi dưới một lớp dung nham
và tro bụi sau trận phun trào của núi lửa
Vesuvi cách đây khoảng hai ngàn năm.
Trong số hàng hóa mà các thương nhân ở
Alecxanđri hay buôn bán thời bấy giờ,
thứ mỹ phẩm “màu xanh đồng”
rất được ưu chuộng. Những người
đàn bà ăn diện thường dùng chất
đó để tạo nên những quầng
mắt - thời bấy giờ, làm như thế
mới được coi là biết tô điểm.
Và lịch sử cũng đă lặp lại,
thứ “son phấn” ấy ngày nay lại
trở thành “mốt” của thời đại.
Xưởng đúc súng - “Chuyến công cán” may
mắn - Nhà thờ chia tay với chuông - Một
“nước cờ” - Trên thảo nguyên Bankhas -
Tàu “B́nh minh” rà khắp đại dương
- Mái lầu hoàng cung.
Các mỏ quặng đồng từng được
khai thác trên lănh thổ Liên Xô đă có đến
vài ngàn tuổi. Trong các cuộc khai quật ở
ngoại Capcazơ, trung Á, Xibia, Antai, các nhà
khảo cổ học đă t́m thấy dao, ŕu,
đầu mũi tên và lá chắn mũ và đồ
trang sức - tóm lại là vô số đồ
dùng được làm ra từ rất lâu trước
công nguyên - bằng đồng và đồng
đỏ.
Hồi đầu thế kỷ XVI, các “xí
nghiệp quốc pḥng” ở Maxcơva như “Xưởng
đúc súng”, “Băi đúc súng”, đă chế
tạo ra các vũ khí bằng đồng đỏ
với các cỡ khác nhau. Trong việc đúc vũ
khí, những người thợ Nga lành nghề
đă đạt đến tŕnh độ hoàn
hảo. Khẩu đại bác Vua nặng 40
tấn do Anđrei Chokhôp đúc bằng đồng
đỏ năm 1586 cho đến nay vẫn
được coi là kiệt tác của nghệ
thuật đúc. Một chứng tích tuyệt
vời nữa của kỹ thuật đúc là
quả chuông vua bằng đồng đỏ
nặng 200 tấn do cha con người thợ khéo
Maturin đúc vào năm 1735 để treo lên gác
chuông Iva Đại đế. Nhân đây cũng
nói thêm, ṿm của di tích kiến trúc thế
kỷ XVI này được lợp bằng
những lá đồng nguyên chất mạ vàng.
Cửa phía nam của giáo đường Uxpenxki -
nhà thờ chính của nước Nga cổ, cũng
được làm bằng những tấm đồng.
V́ thiếu đồng nên nước Nga phải
thường xuyên t́m kiếm những mỏ đồng
mới. Giữa thế kỷ XVII, nhà buôn Xemen
Gavrilop được cử đến huyện
Olonet để “lùng quặng đồng”.
Chuyến đi đă thành công: quặng đồng
đă thực sự được t́m thấy.
Hiện c̣n giữ được một tài
liệu có từ năm 1673 kể rằng, viên
huyện đội trưởng Olonet phải ra
lệnh dọn sạch con đường từ
mỏ quặng đến xưởng dài một
vecxta rưỡi (Vecxta là đơn vị đo
chiều dài cũ của nước Nga, bằng
1066 mét(N. D.). Trước đó ít lâu, vào năm
1652, viên tỉnh trưởng Kazan đă báo cáo
với nhà vua rằng, quặng đồng “đă
t́m được nhiều và sẽ dựng các xưởng
để luyện đồng”.
Thế mà đồng vẫn không đủ.
Nạn thiếu đồng đặc biệt
nghiêm trọng trong thời gian chiến tranh
với Thụy Điển (một điều
kỳ lạ là suốt thời gian chiến tranh,
nước Nga vẫn mua được đồng
và sắt của ... Thụy Điển). Trong
trận đánh gần Narva năm 1700, quân đội
Nga đă bị thất bại nặng nề.
Hiểu được sự cần thiết
phải xây dựng một lực lượng
pháo binh hùng mạnh, cho nên, bên cạnh việc tăng
cường nấu luyện đồng, Piôt đệ
nhất c̣n quyết định trưng thu chuông
đồng và các thứ đồ đồng
khác của nhà thờ. Bất chấp sự
phản đối của các cha cố, nhà vua
vẫn dốc toàn bộ số lượng đồng
thu được vào mục đích quân sự.
Trận Pontava đă xác nhận được
sự sáng suốt của nhà vua. Quân đội
Thụy Điển chỉ có một ít vũ khí
nên đă bị thua liểng xiểng trước
hỏa lực của hàng chục cỗ đại
bác bằng đồng của quân đội Nga.
Việc đánh bại quân đội Thụy
Điển có ư nghĩa rất quan trọng đối
với sự phát triển sau này của nền
kinh tế Nga.
Sau chiến thắng Pontava, Piôt đệ nhất
c̣n thực hiện một cuộc cải cách
nữa. Việc buôn bán trong nước vừa
mới phát hiện đă đ̣i hỏi một
thứ vật liệu rẻ dùng để đúc
tiền, có khả năng thay thế bạc, v́
bạc rất cần cho ngoại thương.
Lại một lần nữa, chuông đồng
đă được huy động, nhưng bây
giờ không phải là để đúc súng mà
là để đúc tiền.
Trong những năm tiếp theo, việc sản
xuất đồng ở nước Nga vẫn
tiếp tục phát triển. Hàng chục xưởng
luyện đồng đă xuất hiện ở
Uran, Antai. Cuối thế kỷ XIX đă có xưởng
luyện đồng ở Capcazơ và Cazăcxtan.
Cũng trong khoảng thời gian này, nghề
luyện đồng c̣n xuất hiện ở vùng
cực bắc (thuộc tỉnh Enisei cũ). Năm
1919, nhà địa chất N. N. Urvantxep đă phát
hiện được những tàn tích của ḷ
luyện đồng ở Norinxcơ. Qua nghiên
cứu người ta thấy rằng, ḷ này
được xây dựng năm 1872, c̣n trước
khi xây ḷ đă xảy ra những sự kiện
khá lư thú.
Thời bấy giờ ai cũng biết là ở
Taimưr có quặng đồng, nhưng công
nghiệp luyện đồng không thể phát
triển được v́ giá vật liệu xây
dựng quá đắt, nhất là gạch. Thế
rồi vào năm 1863, nhà buôn Kiprian Xotnikop đă
quyết định đi một “nước
cờ” tinh khôn. Ông ta yêu cầu tổng đốc
tỉnh Enisei cho phép xây dựng tại làng Đuđinca
một nhà thờ gỗ bằng tiền riêng
của ḿnh. Lẽ tất nhiên, viên tổng đốc
không thể từ chối kẻ nô lệ của
chúa về ư nguyện thiêng liêng này, và nhà buôn
được cấp ngay giấy phép đúng
thủ tục. Tṛ ma mănh là ở chỗ văn
pḥng tổng đốc không biết rằng
ở Đuđinca đă có nhà thờ rồi, mà
lại là nhà thờ bằng đá. V́ vậy, sau
khi khẩn trương xây cất xong nhà thờ
bằng gỗ, lăo lái buôn láu lỉnh này bèn
dỡ nhà thờ cũ và lấy gạch “linh
thiêng” ở đó để xây ḷ luyện
đồng vào năm 1872 - đó là cụ tổ
của nhà máy luyện kim màu khổng lồ
hiện nay thuộc liên hợp luyện kim Norinxcơ.
Liên hợp này đi vào hoạt động không
lâu trước chiến tranh vệ quốc vĩ
đại.
Cho đến đầu thế kỷ XX, một
phần đáng kể của ngành công nghiệp
đồng của nước Nga vẫn nằm
trong tay các xí nghiệp nhượng quyền nước
ngoài. Năm 1913, chỉ sản xuất được
17 ngàn tấn đồng tinh luyện. Con số
đó không thể đáp ứng được
nhu cầu của đất nước.
Cuộc nội chiến và sự can thiệp
của khối đồng minh đă đưa
ngành sản xuất đồng của nước
Nga đến chỗ gần như tê liệt hoàn
toàn. Nhiều xí nghiệp khai thác đồng
bị tàn phá hoặc bị ngập nước,
các nhà máy bị đóng cửa: cả công nhân,
lẫn nguyên vật liêu và nhiêu liệu đều
không có... Để thực hiện kế
hoạch điện khí hóa đất nước
của Lênin, cần phải có nhiều đồng.
Ngày 5 tháng 5 năm 1922, nhà máy luyện đồng
Kalata (nay là nhà máy Kirovograt) vừa được
khôi phục đă cho ra mẻ sản phẩm
đầu tiên. Hoàn toàn có thể coi ngày khởi
đầu hoạt động của xí nghiệp
là ngày ra đời của ngành luyện kim màu
Xô - viết... Hiên nay, công nghiệp đồng
là một trong những ngành chủ đạo
của nền luyện kim màu Xô - viết.
Đồng – một trong những kim loại
cổ nhất mà con người biết đến,
đă được sử dụng trong nhiều
lĩnh vực kỹ thuật hiện đại
nào?
Những tính chất quan trọng nhất của
đồng là tính dẫn điện và dẫn
nhiệt tuyệt vời. Chỉ riêng bạc là
kim loại duy nhất có những tính chất này
tốt hơn đồng. Nhưng bạc lại
rất đắt tiền nên không thể sử
dụng rộng răi vào các mục đích công
nghiệp. Chính v́ vậy mà đồng xứng
đáng được gọi là kim loại
chủ yếu của ngành kỹ thuật điện.
Các nhà công nghệ chuyên nghiên cứu việc gia
công đồng hiện nay cũng như tổ
tiên xa xưa của họ từng sống trong
hang động đều ưa chuộng kim
loại này v́ tính dẻo cao của nó : đồng
có thể cán thành lá cực mỏng, mỏng hơn
nhiều lần so với tờ giấy cuộn
thuốc lá.
Đồng c̣n có một tính chất quư báu
nữa - đó là tính không nhiễm từ. Trên
núi “Đài khí tượng” tại thành
phố Xveclôpxcơ có một ngôi nhà gỗ xây
dựng năm 1836 để quan trắc khí tượng
và địa từ. Khi xây dựng ngôi nhà này, người
ta chỉ dùng đinh đồng chứ không dùng
một chiếc đinh sắt nào cả để
tránh nhiễu cho các khí cụ đo từ.
Năm 1952, chiếc thuyền buồm ba cột
“B́nh minh” đóng theo đơn đặt hàng
của Liên Xô đă rời xưởng ở
thành phố Turku (thuộc Phần Lan). Đó là
một chiếc thuyền buồm nhỏ có động
cơ, dùng để khảo sát từ trường
của trái đất. Số vật liệu
nhiễm từ trong kết cấu và thiết
bị của con thuyền được giảm
đến mức tối thiểu, nên các phép
đo đạt được độ chính
xác cao. Các xà đỡ vỏ thuyền gỗ
đều được làm bằng đồng
thau; neo, xích neo và đa số chi tiết của
máy móc trên thuyền đều được
làm bằng đồng đỏ và các hợp kim
không nhiễm từ. Ngay cả dụng cụ
cử tạ để cho nhân viên và các nhà khoa
học trên thuyền luyền luyện tập
thể thao trong các cuộc đi biển dài ngày cũng
đều làm bằng đồng thau.
Có thể gặp đồng trong máy biến áp
và động cơ ô tô, trong máy thu h́nh và thu
thanh, trong các thiết bị điện tử
rất phức tạp và trong các máy gia công kim
loại. Từ đồng, người ta chế
tạo các chi tiết của thiết bị hóa
học và dụng cụ làm việc có liên quan
với các chất dễ nổ và dễ cháy,
những chỗ mà không thể dùng thép, v́ thép
dễ đánh lửa. Hơi đồng là tác
nhân chủ yếu của cái gọi là laze xung mà
kính hiển vi laze ưu việt nhất được
chế tạo trên cơ sở đó : loại
kính hiển vi này cho phép chiếu h́nh ảnh các
vật vô cùng nhỏ lên màn ảnh với độ
phóng đại 15 ngàn lần.
Đồng và các hợp kim của nó có “thâm
niên công tác” rất lâu năm trong ngành xây
dựng. Ngay từ thời trung cổ, kim loại
này đă được dùng làm mái lợp các
lâu đài và nhà thờ. Chẳng hạn, lâu
đài nổi tiếng của vua nước Đan
Mạch ở Enxino, nơi mà hoàng tử Đan
Mạch Hamlet theo ư của Sechxpia vĩ đại
đă quyết định lựa chọn một
trong hai điều: “Tồn tại hay không
tồn tại”, cũng được lợp
bằng đồng lá. Hoa văn và các chi tiết
trang trí khác bằng đồng đă đi vào
kiến trúc hiện đại một cách thành
công. Những người kiến tạo nên toà
nhà Empire State Building – một trong những toà nhà
cao nhất thế giới, đă noi theo người
Ai Cập cổ xưa làm ống dẫn nước
bằng đồng: hơn 200 tấn đồng
đă được sử dụng cho hệ
thống ống dẫn nước của toà nhà
chọc trời cao 381 mét này. Những chi tiết
ở khung và viền chạm trổ của cả
năm ngôi sao bằng hồng ngọc trang trí cho
các tháp của điệm Cremli ở Maxcơva
đều làm bằng đồng lá mạ vàng.
“Cuộc nổi loạn v́ đồng”- Cái mũi
ở đó phỏng có ích ǵ - Kho báu của
xứ Uran cằn cỗi - Con linh dương ngă
gục ở đâu? - Một tỷ năm trước
đây - Sự nghiệp trong cái mũ - Chuỗi
dây chuyền ngon lành.
Số hợp kim của đồng được
sử dụng trong các lĩnh vực hoạt động
khác nhau của con người đang tăng lên
không ngừng. Mới vài chục năm trước
đây, người ta chỉ gọi các hợp
kim của đồng với thiếc là “đồng
đỏ”, vậy mà hiện nay đă có các
loại đồng đỏ chứa nhôm và ch́,
chứa silic và mangan, chứa berili và cađimi,
chứa crom và ziriconi.
Đặc biệt ngày nay người ta dùng đồng
đỏ chứa nhôm (hợp kim của đồng
đỏ với khoảng 5 % nhôm) để đúc
tiền. Lần đầu tiên, tiền đồng
lưu hành ở nước Nga hồi giữa
thế kỷ XVIII. Năm 1662, sự kiện này
đă dẫn đến cuộc khởi nghĩa
ở Maxcơva từng đi vào lịch sử
với cái tên là “Cuộc nổi loạn v́
đồng”. Việc thay thế tiền bạc
bằng tiền đồng là nguyên nhân trực
tiếp dẫn đến cuộc khởi nghĩa
này, v́ điều đó làm cho giá bánh ḿ và giá
các thực phẩm khác tăng vọt. Bị
khốn khổ do cuộc chiến tranh dai dẳng
với Ba Lan và Thụy Điển, lại
phải chịu đựng cảnh thiếu
thốn cùng cực do nạn mất mùa kinh niên
và phải nộp nhiều thứ sưu thuế
nặng nề, nên nhân dân đă vùng lên khởi
nghĩa. Sa hoàng đă đè bẹp “cuộc
nổi loạn v́ đồng” này và đă đàn
áp những người khởi nghĩa một
cách tàn khốc, nhưng tiền đồng cũng
phải ngừng lưu hành.
Người ta biết không ít những cái tên
đẹp đẽ và những biệt danh
nhạo báng mà nhiều vua chúa công hầu
từng mang theo vào lịch sử. Trong bọn
họ, một số người gặp may
mắn: chẳng hạn, ai chẳng mát ḷng mát
dạ v́ hàng trăm và hàng ngàn năm về sau
vẫn được lưu hành là Vĩ đại,
là Khôi ngô hoặc Hung tợn? Vậy mà vua Henry
VIII ở nước Anh từng trị v́ hồi
thế kỷ thức XVI đành phải than
thở với số phận, bởi v́ ông ta
bị thần dân của ḿnh đặt cho cái
biệt danh nhạo báng là “Cái mũi đồng
cũ rích”. Nguyên do của cái vinh dự “cao
cả” ấy như sau. Dưới thời Henry
VIII, việc chi tiêu trong cung đ́nh rất tốn
kém, nhiều tiền của phải cung phụng
cho một số hoàng hậu kế tiếp nhau
(ông ta có đến nửa tá vợ chính
thức), rồi các cuộc chiến tranh với
Pháp và Xcotlen cũng đ̣i hỏi những
khoản chi tiêu rất lớn. Tất cả
những điều đó đă làm cho ngân
quỹ của nhà vua trở nên thiếu hụt
nghiêm trọng. Ông vua hám sắc và hiếu
chiến này đă t́m được một phương
kế “độc đáo” để thoát
khỏi t́nh thế nguy ngập: theo chỉ thị
bí mật của nhà vua, người ta bắt
đầu dập những đồng tiền
bạc bằng .... đồng, rồi chỉ
mạ một lớp bạc rất mỏng ở
bên ngoài. Nhưng thật là rủi ro, tất
cả những đồng tiền đă từng
lưu hành trong nhiều năm đều bị
ṃn dần. Những đồng Shilling mà chính vua
Henry VIII đă in mặt ḿnh lên đó cũng
đành phải cam chịu số phận ấy.
V́ cái mũi là chi tiết lồi ra nhiều
nhất của bộ mặt nhà vua trên đồng
tiền nên nó bị ṃn nhiều hơn cả.
Bạc ở chóp mũi bị ṃn hết làm cho
đồng lộ ra một cách trơ trẽn.
Bởi vậy, ngay khi Henry VIII c̣n sống, dân
chúng đă gọi ông là “Cái mũi đồng
cũ rích”. Cho đến nay, cái tên nhạo báng
ấy vẫn c̣n lưu truyền trong những người
sưu tập tiền cổ.
Giữa thế kỷ XVII, ở Thụy Điển
người ta đă đúc những đồng
tiền rất khác thường: chúng là những
tấm đồng h́nh chữ nhật dày cộp,
nặng gần 20 kilôgam. Thứ tiền lẻ này
mới đến tay các nhà bác học chưa lâu
lắm, khi những người thợ lặn t́m
thấy vài đồng tiền như thế trong
xác một chiếc tàu thời trung cổ nằm
dưới đáy biển Bantic.
Ở nước Nga cũng đă từng phát
hành những đồng tiền tương
tự, nhưng thực ra th́ kích thước
nhỏ hơn. Năm 1725 đă phát hành những
đồng tiền rúp bằng đồng có
dạng tấm mỏng h́nh vuông, nặng 1,6
kilôgam. Cùng với đồng rúp c̣n có những
đồng tiền h́nh vuông nhỏ hơn:
nửa rúp, một phần tư rúp, mười
côpech, năm côpech và một côpech. Tiêu pha
bằng những đồng tiền h́nh vuông
nặng tŕnh trịch này quả là rất bất
tiện, nên người ta phải đ́nh chỉ
phát hành chúng. Ngày nay, những đồng
tiền có một không hai ấy đối
với các nhà sưu tập tiền cổ
được đánh giá ngang với trọng lượng
vàng.
Đôi khi, tuy có vẻ nghịch lư, những đồng
tiền bằng đồng lại đắt hơn
những đồng tiền bằng vàng rất
nhiều lần. Có một lần ở London,
một đồng tiền nhỏ đă được
bán đấu giá với giá một penny (tức
là một phần trăm của đồng
bảng Anh). Nhưng những người có
mặt tại đó th́ biết rằng, cái khoanh
kim loại xám xịt kia hoàn toàn “không đáng
giá một xu”. Năm 1933, xưởng đúc
tiền ở Anh đă đúc cả thảy sáu
đồng tiền như vậy, mà năm trong
số đó được giữ lại ở
ngân khố quốc gia nước Anh, c̣n đồng
thứ sáu th́ hồi bấy giờ được
cất giữ trong một bộ sưu tập tư
nhân. Người chủ mới của đồng
tiền cũ kia đă đưa nó ra bán đấu
giá với món tiền gọn lỏn là 2600
bảng Anh, nghĩa là cao gấp nửa triệu
lần giá trị danh nghĩa của đồng
tiền cũ.
Trong thiên nhiên có nhiều khoáng vật chứa
đồng. Đẹp nhất trong số đó
là malachit. Ḷng đất xứ Uran cằn cỗi
tàng trữ những thân quặng lớn của
thứ đá xanh lục kỳ diệu này với
những đường vân không ǵ bắt chước
nổi. Năm 1835, người ta đă t́m
thấy ở đây một tảng nặng 250
tấn. Bàn tay vàng của những người
thợ chạm đá Uran đá biến malachit
thành những sản phẩm có vẻ đẹp
kỳ diệu: những cái hộp, lọ hoa, bàn
ghế, cột trụ. Trong gian malachit của
bảo tàng Ermitagiơ ở Lêningrat có bày
những lọ hoa làm bằng thứ đá quư
này.
Ở Zambia và Zair (châu Phi) có những mỏ
quặng đồng giàu có. Lịch sử khám
phá ra chúng thật thú vị. Hồi đầu
thế kỷ này, khi đi săn linh dương
ngựa sừng kiếm, một người dân
địa phương đă bắn bị thương
một con, rồi đuổi theo nó cho đến
khi nó ngă gục trên một mỏm đá. Đi
đến tảng đá, người thợ săn
thấy trên đá có những đường vân
màu ngọc bích. Anh ta liền mang một cục
đá này về cho các nhà địa chất. Và
các nhà địa chất đă xác định
được rằng, thiên nhiên đă cất
giấu ở đây những kho đồng không
nhỏ của ḿnh. Vùng đất có loại
đá này liền được gọi là “vành
đai chứa đồng”, c̣n mỏ đồng
ở Zambia, nơi t́m thấy đồng lần
đầu tiên, từ đó mang tên là Roan Antelope
(nghĩa là “linh dương ngựa”).
Để tôn vinh đồng, trong đại
sảnh của sân bay quốc tế ở thủ
đô Luxaca của Zambia, người ta dựng
lên một đài kỷ niệm - đó là
một khối quặng đồng màu lục
nhạt, nặng nhiều tấn. Tấm “danh
thiếp” của quốc gia châu Phi non trẻ này
là như thế. C̣n mái ṿm bốn mặt của
một ṭa nhà lớn ở thủ đô - nơi
đặt trụ sở của quốc hội
Zambia, th́ được ốp bằng những
tấm đồng rất lớn, tượng trưng
cho tài nguyên thiên nhiên giàu có - nền tảng kinh
tế của nước này.
Một điều rất lư thú là chính trong các
hầm ḷ của mỏ đồng ở Zambia,
các nhà bác học đă phát hiện được
dấu vết cổ sơ nhất của sự
sống trên trái đất: trong các tầng đá
có tuổi một tỷ năm vẫn c̣n thấy
những “hành lang” nhỏ li ti do các sinh vật
đa bào đục ra; những sinh vật này so
với các đại biểu “có tuổi”
nhất của hệ động vật trên trái
đất mà khoa học đă biết th́ c̣n cao
tuổi hơn đến 300 triệu năm.
Khác với Zambia, nơi mà công nghiệp khai thác
đồng chỉ mới xuất hiện ở
thế kỷ chúng ta, trên lănh thổ Thụy
Điển, các mỏ đồng đă được
khai thác ngay từ thời mà người viking
(những người Bắc Âu từng tổ
chức những cuộc hành quân ăn cướp
ở các vùng ven biển Châu Âu từ thế
kỷ VIII đến giữa thế kỷ IX(N.
D.).) c̣n hoành hành, tức là khoảng một ngàn
năm trước đây. Tại nhà bảo tàng
của thành phố Falun - nơi đă từng
nổi tiếng một thời về nghề khai
thác đồng, khách tham quan bỗng chú ư đến
một hiện vật khá kỳ lạ: một
cái mũ rất to bằng đồng. Từ
thời xưa, một người thợ làm mũ
có lẽ rất sành nghề quảng cáo đă
từng hành nghề ở đây. Hẳn là ông ta
đă thuê những người thợ đúc
đồng làm cho một cái mũ h́nh trụ cao
một mét và đề lên đó mấy chữ
“Làm mũ trong cung đ́nh” rồi trưng bày
cho mọi người xem để lôi cuốn
khách hàng. Hiện nay, chiếc mũ độc
đáo này, cũ đến nỗi bị cào xước,
lộ cả ánh đồng đỏ quạch ra,
đă chiếm một vị trí danh dự
giữa các đồ vật trong bảo tàng này.
Tại một nước khác ở Bắc Âu - nước
Phần Lan, cũng có đồng. Một trong
những mỏ mới được t́m thấy
ở đây đă mang tên kẻ khám phá ra nó -
chó becgie Laria đă được huấn
luyện nghề địa chất. Đúng như
mọi người mong đợi, đối
với thông báo về giải thưởng
bằng tiền để thưởng cho người
có công phát hiện ra mỏ, con chó đă tỏ
ra rất biết kiềm chế, bởi v́,
một chuỗi xúc xích đeo vào cổ đă
mang lại cho nó niềm vui thực sự.
Hoa violet ưa kẽm - Đứng ở xa th́ nh́n
thấy cái lớn - Những ngón gian xảo
của quặng đồng - Máu xanh ư? -
"Thuốc chống cá mập" - Những con
quỷ lùn kiếm việc làm.
Trong thời gian gần đây, liên minh giữa
các nhà địa chất học và thực
vật học ngày càng trở nên bền chặt,
tạo nên cái gọi là địa thực
vật học chỉ thị. P. P. Bajop - người
vẫn thường ca ngợi những kho báu
bằng đá của xứ Uran trong truyện
ngắn của ḿnh, đă viết về những
thứ hoa và cỏ thần kỳ biết phát
hiện cho con người những kho vàng,
sắt, đồng. V́ có rễ cắm sâu vào
đất đá nên nhiều loại cây cỏ
đă hút được dung dịch chất
khoáng từ ḷng đất, chẳng khác ǵ
những cái bơm hút. Nếu như gần cây
có quặng của một kim loại nào đó
th́ hàm lượng kim loại ấy trong rễ,
cành, lá sẽ cao hơn hẳn mức b́nh thường.
Mỗi loại cây ưa thích một món ăn ngon
của ḿnh: cây ngô và cây kim ngân không hờ
hững với vàng, hoa violet ưa chuộng
kẽm, mangan hợp khẩu vị của ngải
cứu, cây thông thích berili. Hàm lượng cao
của một nguyên tố nào đó trong thực
vật là dấu hiệu cho các cuộc t́m
kiếm địa chất và thường dẫn
đến sự phát hiện ra các mỏ.
Chẳng hạn, nhờ các “bạn hữu màu
xanh” mà người ta đă t́m được
những mỏ quặng đồng ở Uzbekixtan
và ở Antai.
Một nhà thơ có nói: “Đứng ở xa th́
thấy được cái to lớn hơn”. Có
lẽ các nhà địa chất hoàn toàn đồng
ư với nhà thơ này. Ở thời đại
chúng ta, họ đang sử dụng phương
pháp chụp ảnh từ vũ trụ để
nghiên cứu trái đất được kỹ
hơn. Một máy chụp ảnh được
đặt trên vệ tinh nhân tạo hoặc trên
trạm nghiên cứu khoa học trên quỹ đạo
để xem xét kỹ lưỡng bề mặt
của trái đất bằng “con mắt
chụp ảnh”, c̣n một máy tính điện
tử mà bộ nhớ của nó đă ghi
những “cảnh quan” địa chất điển
h́nh cùng làm việc với máy chụp ảnh
sẽ làm cho chúng ta biết phải đặc
biệt chú ư đến cái ǵ. Giải mă các
bức ảnh thật kỹ lưỡng, c̣n trên
thực địa th́ kiểm tra lại những
nơi mà các nhà địa chất thấy
cần lưu ư, bằng cách đó, chúng ta sẽ
thu được những kết quả tốt
đẹp. Chẳng hạn, địa chất
học vũ trụ đă giúp phát hiện
những mỏ quặng đồng ở Pakixtan
mà trước đây chưa ai biết.
Mỗi năm, hàng triệu tấn quặng đồng
được vận chuyển từ các nơi
khai thác đến các xí nghiệp luyện kim theo
các tuyến đường sắt và đường
ô tô, trên các sông, hồ, biển và đại dương.
Và cũng thật kỳ lạ, những kiện
hàng hoàn toàn vô hại này đôi khi lại là căn
nguyên của một mối nguy hiểm lớn.
Chẳng hạn, cách đây chưa lâu lắm,
quặng đồng đă là ... thủ phạm
của một tai nạn giáng lên con tàu chở
hàng “Anatina” của Na Uy. Các khoang của
chiếc tàu thủy đang chạy về phía
bờ biển Nhật Bản đều chất
đầy tinh quặng đồng. Bỗng nhiên,
c̣i báo động rú lên: tàu đă bị
thủng. Th́ ra những kiện hàng mà tàu đang
chở đă chơi một tṛ đùa ma quái
với các thủy thủ: đồng trong tinh
quặng cùng với vỏ thép của tàu
“Anatina” đă tạo thành một bộ pin mà hơi
nước biển là chất điện phân.
Ḍng điện sinh ra đă gặm ṃn lớp
vỏ bọc tàu đến nỗi nhiều
chỗ bị thủng, khiến cho nước
biển tràn vào khoang tàu.
C̣n một lĩnh vực hoạt động
nữa của đồng, tuy không phải với
tư cách là một kim loại nhưng cũng
rất đáng quan tâm. Đồng thuộc cái
gọi là “nguyên tố sinh học” rất
cần thiết cho sự phát triển b́nh thường
của thực vật và động vật. Nó
chịu trách nhiệm thúc đẩy các quá tŕnh
hóa học diễn ra bên trong các tế bào.
Nếu không có hoặc thiếu đồng trong
các mô thực vật th́ hàm lượng chất
diệp lục sẽ giảm, lá cây bị vàng
úa, cây sẽ không ra quả và có thể chết.
Không phải ngẫu nhiên mà đồng sunfat
được sử dụng rộng răi trong nông
nghiệp.
Trong số các đại biểu của giới
động vật th́ các loài bạch tuộc,
mực, ṣ hến và một số loài thân
mềm chứa nhiều đồng hơn cả.
Trong máu của các loài tôm cua và các loài chân đầu,
đồng tham gia vào việc tạo thành sắc
tố hô hấp hemocyanin, cũng giống như
vai tṛ của sắt trong máu của các động
vật khác. Khi kết hợp với oxi của
không khí, hemocyanin có màu xanh (v́ vậy mà ốc
sên có “máu xanh”), c̣n khi nhả oxi cho các mô th́
nó trở nên không màu. Ở những động
vật đứng ở bậc thang phát triển
cao hơn và ở người, đồng chủ
yếu nằm trong gan. Nếu không đủ lượng
đồng trong thức ăn, con người
sẽ mắc bệnh thiếu máu và xuất
hiện chứng suy nhược.
Có lẽ chính v́ thế nên nhiều dân tộc
gán cho đồng những tính chất chữa
bệnh. Chẳng hạn, người Nepan coi đồng
là một kim loại linh thiêng giúp cho việc
tập trung tư tưởng, bổ ích cho sự
tiêu hóa và chữa được các chứng
bệnh đường ruột và dạ dày (người
bệnh được uống nước trong
một cái cốc đựng vài đồng
tiền đồng). Một trong những ngôi chùa
to nhất và đẹp nhất Nepan có tên là
“Chùa đồng”.
Nếu như cá chép không thờ ơ với
đồng th́ những cư dân to xác hơn
của thủy phủ, như bọn cá mập,
lại không thể chịu đựng được
nguyên tố này, hay nói chính xác hơn, chúng
rất kỵ một hợp chất của đồng
với lưu huỳnh - đó là đồng
sunfat. Nhiều thí nghiệm để kiểm tra
thứ thuốc chống cá mập này đă
được tiến hành ở Mỹ hồi
đầu chiến tranh thế giới thứ hai.
Khi đó, nhiều tàu thủy bị đắm
v́ bom đạn và thủy lôi nên rất cần
những phương tiện chống cá mập
một cách hữu hiệu. Nhiều nhà bác
học và thợ săn cá mập đă tham gia
vào việc giải quyết vấn đề này.
Nhân đây xin nói thêm, cả văn hào Ernest
Hemingwây cũng không đứng ngoài cuộc: ông
đă chỉ rơ từng nơi mà ông đă
nhiều lần săn đuổi loài cá dữ
tợn này. Thành công của các cuộc thí
nghiệm đă vượt quá sự mong đợi:
cá mập tham vớ những miếng mồi không
có đồng sunfat và tránh xa những miếng
mồi tẩm chất này ngoài một dặm.
Thực ra, các chuyên gia Australia lúc đầu đă
nghi ngờ thứ “thuốc chống cá mập”
này. Họ mỉa mai: “Đối với cá
mập ở xứ chúng tôi (cá mập ở
Australia được coi là dữ tợn
nhất), cái đó chẳng khác ǵ thuốc đau
đầu. Nó chỉ là thứ gia vị hơi
cay thêm vào món thịt rán”. Nhưng khi thuốc
này được thử nghiệm tại
vịnh Cá mập nổi tiếng bên bờ
biển phía tây Australia th́ ngay cả những
kẻ hoài nghi quá quắt cũng buộc phải
công nhận hiệu quả của nó.
C̣n có một phương pháp khai thác đồng
liên quan với các quá tŕnh sinh học. Ngay từ
hồi đầu thế kỷ của chúng ta,
các mỏ đồng ở bang Iut (nước
Mỹ) đă ngừng hoạt động, v́
những người chủ mỏ tin chắc là
trữ lượng quặng đồng đă
cạn kiệt, nên họ đă tháo nước
vào cho ngập cả khu mỏ. Hai năm sau, người
ta bơm nước ra và đă thu được
12 ngàn tấn đồng. Một trường
hợp tương tự như vậy đă
xảy ra ở Mêxico: chỉ sau một năm, người
ta đă múc được 10 ngàn tấn đồng
từ một mỏ đă bỏ hoang không ai ngó
tới.
Vậy th́ đồng này lấy từ đâu ra?
Các nhà bác học đă t́m được
lời giải đáp. Trong vô số các loại
vi khuẩn, có những loại mà các hợp
chất sunfua của một số kim loại là
“thức ăn ngon” được chúng rất
ưa thích. Bởi v́ trong thiên nhiên, đồng
thường có liên quan với lưu huỳnh nên
các vi khuẩn này không hờ hững đối
với quặng đồng. Khi oxi hóa các loại
đồng sunfua không hoàn tan trong nước, các
vi khuẩn biến chúng thành những hợp
chất dễ ḥa tan, thêm vào đó, quá tŕnh này
diễn ra rất nhanh. Chẳng hạn, trong trường
hợp oxi hóa thông thường th́ sau 24 ngày,
chỉ 5 % đồng được tách ra
khỏi chancopirit (một khoáng vật chứa
đồng), nhưng trong những thí nghiệm có
sự tham gia của vi khuẩn, chỉ sau bốn
ngày đă lấy được 80% đồng.
Như chúng ta thấy đấy, việc so sánh
các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật hoàn
toàn cho thấy rơ tính ưu việt của
những “người lao động tế vi”.
Phải nói thêm rằng, trong trường hợp
vừa kể, người ta đă tạo
được những điều kiện coi như
lư tưởng cho vi khuẩn làm việc: nhiệt
độ của môi trường thay đổi
từ 30 đến 35 độ C, khoáng vật
được nghiền nhỏ và được
khuấy trộn thường xuyên trong dung
dịch. Song cũng có khá nhiều số liệu
thực nghiệm chứng tỏ tính dễ dăi
của vi khuẩn: chúng sắn sàng làm cái
việc mà chúng ưa thích ngay cả trong những
điều kiện khắc nghiệt ở phương
bắc, như ở bán đảo Kola chẳng
hạn.
Sự tham gia của vi khuẩn rất có lợi
đối với giai đoạn kết thúc
việc khai thác ở các mỏ, v́ thông thường,
tại những nơi đă khai thác xong vẫn
c̣n lại từ 5 đến 20% quặng. Nhưng
việc khai thác phần quặng c̣n lại này
không có hiệu quả kinh tế và đôi khi
hoàn toàn không thể khai thác được.
Vậy mà vi khuẩn th́ không ngại ṃ đến
mọi ngơ ngách của “nghĩa địa đồng”
để thu dọn hết các hạt quặng
đồng c̣n lại.
Cũng có thể sử dụng vi sinh vật để
xử lư các băi thải. Tại mỏ Cananea
ở Mexico, nơi mà đồng được
khai thác từ hơn một trăm năm nay,
gần các giếng mỏ đă mọc lên
những băi thải rất lớn, đến
hàng chục triệu tấn. Mặc dù hàm lượng
đồng trong đó hoàn toàn không đáng
kể, song người ta vẫn thử tưới
chúng bằng nước giếng mỏ; nước
này sau đó chảy vào các bể chứa
ngầm. Cứ từ mỗi lít nước này,
có thể lấy ra 3 gam đồng. Vậy là
chỉ vẻn vẹn sau 1 tháng, từ chỗ
“không có ǵ” đă khai thác được 650
tấn đồng.
Ở Liên Xô, vi khuẩn cũng được
tính vào “biên chế” của một số xí
nghiệp mỏ. Thiết bị thí nghiệm đầu
tiên về ngâm chiết quặng đồng
bằng vi khuẩn đă bắt đầu
hoạt động ngay từ năm 1964 tại
mỏ Đectiaxcơ - một trong những mỏ
đồng lớn nhất xứ Uran. Tại đây,
gần các mỏ lộ thiên đă khai thác xong và
trong các băi thải của nhà máy tuyển khoáng,
qua nhiều năm đă h́nh thành một
“mỏ” quặng đồng mới, mặc dù
là nghèo đồng. Các vi sinh vật được
giao quyền khai thác tại đây. Chẳng
phải phàn nàn ǵ về ḷng nhiệt t́nh lao
động của chúng: nhiều tấn kim
loại quư giá này đă được lấy
ra. Hiện nay, tại Đectiaxcơ đă lắp
đặt xong thiết bị khai thác bằng vi
khuẩn theo quy mô công nghiệp. Tại các xí
nghiệp khác ở Uran và Cazăcxtan, người
ta cũng “làm thủ tục” hàng loạt cho vi
khuẩn ra làm việc.
Các cuộc khảo nghiệm tiến hành tại
viện vi sinh học thuộc viện hàn lâm khoa
học Liên Xô đă chứng tỏ rằng,
khẩu vị của các vi khuẩn công nghiệp
khá đa dạng: ngoài đồng, chúng c̣n có
thể lấy ra được sắt, kẽm,
niken, coban, titan, nhôm và nhiều nguyên tố khác
từ ḷng đất, trong đó có những
nguyên tố rất quư giá như urani, vàng, gecmani,
reni. Các nhà khoa học của viện này đă
chứng minh khả năng khai thác các kim loại
hiếm như gali, inđi, tali nhờ phương
pháp ngâm chiết bằng vi khuẩn.
Các quá tŕnh luyện kim sinh học rất có
triển vọng. Hiện nay, ngâm chiết dưới
đất là phương pháp rẻ nhất
dễ thu được đồng, v́ con người
không cần phải chui xuống hầm ḷ, không
cần đến các nhà máy để nung và
tuyển quặng đồng. Hàng tỷ “nhà
luyện kim” bé li ti tựa như những chú
quỷ lùn giữ của trong các truyện cổ
tích đang ngày đêm làm việc không biết
mệt mỏi, tự giác thực hiện toàn
bộ công việc phức tạp này để
giúp con người thu được thứ kim
loại cần thiết.
Lẽ nào ư định cử những “ công
nhân” này đến làm việc ở những
tầng đất sâu khó với tới, nơi
tàng trữ vô số các loại quặng quư giá,
lại không hấp dẫn hay sao? Chính v́ cần
khai thác của cải ấy mà những người
khai mỏ có khi phải tụt sâu xuống ḷng
đất đến hàng trăm mét, thậm chí
có nơi đến 1500 mét như ở mỏ Taimưr
thuộc Tannac nằm ngoài ṿng bắc cực.
Chúng ta thử h́nh dung một xí nghiệp
luyện kim vi sinh học trong tương lai.
Những cái ống dài chọc sâu xuống đất,
dung dịch sinh học cần thiết được
bơm theo các ống đó đến tận
chỗ có quặng. Thấm vào quặng, dung
dịch này sẽ hấp thụ những kim
loại nhất định, và khi được
đẩy lên mặt đất th́ mang của
quư lên theo. Đến đây chỉ c̣n phải
lấy ra khỏi dung dịch rồi đúc thành
thỏi, làm thành các đồ dùng hoặc
biến thành những sản phẩm nào đó.
Nhà bác học Xô - viết nổi tiếng,
viện sĩ A. A. Imsenetxki đă viết: “Các vi
sinh vật đóng vai tṛ rất to lớn trong
ṿng tuần hoàn của các chất trong thiên
nhiên. Hiện nay, những tư tưởng
về địa vi sinh học do V. I. Vernatxki phát
triển lúc sinh thời đang được áp
dụng trong thực tế. Chúng ta biết
rằng, vi khuẩn là lực lượng chủ
công tạo nên khoáng sản kim loại. Chính Piôt
đệ nhất đă ra lệnh khai thác thứ
quặng mang tiếng “nghèo nàn” từ đáy
các hồ ở miền bắc nước Nga
để sản xuất đại bác. Chính
thứ quặng này do... các vi khuẩn tạo nên.
Trong tương lai không xa, vi khuẩn sẽ
bắt đầu được sử dụng
rộng răi trong công nghiệp với tư cách là
những “người sản xuất tích
cực” các kim loại quư. Cách đây chừng
hai chục năm, điều đó có vẻ như
là chuyện hoang tưởng, vậy mà ngày nay con
người đă biết điều khiển và
thúc đẩy sự hoạt động của
các “nhà luyện kim” không nh́n thấy này.
Giờ đây, ở nhiều nơi trên địa
cầu, người ta đă thu được
urani, đồng, gecmani và nhiều kim loại khác
với quy mô công nghiệp bằng cách bơm nước
băo ḥa vi sinh vật vào các giếng mỏ bỏ
hoang (do đă cạn kiệt). Không nghi ngờ ǵ
nữa, việc sử dụng vi khuẩn trong
thủy luyện kim sẽ làm cho ngành này trở
thành một trong những ngành công nghiệp
chủ đạo ở cuối thế kỷ
của chúng ta. Việc nuôi cấy các vi khuẩn
có khả năng oxi hóa các hợp chất của
lưu huỳnh và của các nguyên tố khác là
một trong những phương thức luyện
kim rẻ tiền và hoàn hảo nhất, hơn
nữa, nền sản xuất đó lại
dễ tự động hóa hoàn toàn”.
... Thời đại đồ đồng đă
đi vào quá khứ của lịch sử từ
lâu, nhưng con người vẫn không từ giă
đồng - người bạn cũ rất trung
thành của ḿnh
|
|
|