|
[...] Chuyển cổ tích biến thành
chuyện thật - Các mỏ ngọc bích của
nữ hoàng Cleopatre - Tṛ tiêu khiển của hoàng
đế La Mă - “Nó xanh lục, trong ngần, vui
mắt và dịu dàng” - Bí mật của người
Inca - Người sành ngọc tiến hành thẩm
vấn - Ḥn đá độc nhất trở
về nước Nga - "Buổi sáng xanh tươi
và buổi chiều đẫm máu"... [...]
“Berili - một trong những nguyên tố tuyệt
diệu nhất, một nguyên tố có ư nghĩa
to lớn cả trên lư thuyết lẫn trong
thực tiễn.
... Việc làm chủ bầu trời, những
chuyến bay dũng cảm của máy bay và khinh khí
cầu sẽ không thực hiện được
nếu không có các kim loại nhẹ; và chúng ta
sẽ thấy trước rằng, cả berili cũng
sẽ đến giúp nhôm và magie là các kim
loại hiện đại của ngành hàng không.
Và khi đó máy bay của chúng ta sẽ bay với
tốc độ hàng ngàn kilômet trong một
giờ.
Một tương lai sáng lạn đang chờ
đón berili !
Hỡi các nhà địa hóa học, hăy t́m ra
những mỏ mới. Hỡi các nhà hóa học,
hăy t́m cách tách thứ kim loại này ra khỏi người
bạn đồng hành của nó là nhôm. Hỡi các
nhà công nghệ học, hăy làm ra những hợp
kim nhẹ nhất, không ch́m trong nước,
cứng như thép, đàn hồi như cao su,
bền như platin và vĩnh cửu như
ngọc quư...
Có thể, những lời đó hiện thời
xem ra giống như chuyện hoang đường.
Nhưng trước mắt chúng ta, biết bao
chuyện hoang đường từng biến thành
chuyện có thật đă ḥa nhập vào tập
quán hàng ngày rồi đó sao, và chúng ta quên
rằng, mới 20 năm về trước,
chiếc radio và phim lồng tiếng đă
chẳng ngân vang như câu chuyện hoang đường
tưởng tượng đó ư?”
Cách đây gần nửa thế kỷ, nhà bác
học Xô Viết vĩ đại, viện sĩ
A. E. Ferxman đă viết như vậy. Lúc bấy
giờ ông đă biết đánh giá đúng đắn
ư nghĩa của berili.
Đúng, berili là kim loại của tương lai.
Và đến lúc ấy, trong Hệ thống
tuần hoàn sẽ có những nguyên tố mà
lịch sử của chúng tương tự như
lịch sử của berili, cũng lùi về quá
khứ xa xôi.
...Hơn hai ngàn năm về trước, trên sa
mạc Nubi, nơi có những mỏ ngọc bích
nổi tiếng của nữ hoàng Cleopatre,
những người nô lệ đă khai thác
được những tinh thể đá màu xanh
kỳ diệu. Từng đoàn lữ hành lạc
đà đă mang ngọc bích đến bờ
biển Đỏ, rồi từ đó, ngọc bích
đi vào cung điện của vua chúa các nước
châu Âu, Cận Đông và Viễn Đông - các hoàng
đế Vizanti, các quốc vương Ba Tư, các
thiên tử Trung Hoa, các vương hầu Ấn
Độ.
Với ánh hào quang lộng lẫy, với mầu
sắc trong ngần, với vẻ đẹp
huyền ảo khi th́ xanh lục đậm,
gầm như xanh thẫm, khi th́ xanh lung linh chói
ngời - trải qua nhiều thời đại,
ngọc bích đă làm cho con người phải mê
say. Nhà sử học cổ La Mă Plini Bố đă
viết: “So với ngọc bích th́ không vật nào
có thể xanh hơn được...”. Theo
truyền thuyết, hoàng đế Lă Mă Neron -
một con người tàn bạo và hiếu
thắng, thường hay xem những trận đấu
đẫm máu của bọn “người
chọi” qua một tinh thể ngọc bích mài
nhẵn. Khi ở La Mă bùng lên một đám cháy,
Neron đă ngắm nghía những ngọn lửa
nhảy múa bập bùng qua viên ngọc bích “quang
học” ấy, trong đó mầu da cam của
ngọn lửa rờn rợn ḥa lẫn màu xanh
lục của viên ngọc (Có lẽ phải đính
chính một điều quan trọng trong truyền
thuyết cổ này: theo các nguồn tin trên báo chí
th́ chiếc ống nḥm của Neron hiện
được giữ tại Vatican gần đây
đă qua sự giám định của một chuyên
gia về khoáng vật học, th́ hóa ra tinh
thể ấy không phải là ngọc bích mà là
crizolit). “Nó xanh lục, trong ngần, vui, mắt và
dịu dàng như cỏ xuân...”. A. I. Kup-rin đă
viết như vậy về ngọc bích.
Cùng với việc t́m ra châu Mỹ, một trang
sử mới đă được ghi thêm vào
lịch sử của loại đá xanh này. Trong các
ngôi mộ và đền miếu ở Mexico, Peru,
Columbia, người Tây Ban Nha đă t́m thấy vô
số ngọc bích lớn, màu lục thẫm.
Chỉ mấy năm sau đó, họ đă vơ
vét hết những của cải huyền bí này.
Họ cũng đi t́m những địa điểm
mà người xưa đă khai thác thứ
ngọc kỳ diệu này nhưng không t́m
thấy. Măi đến giữa thế kỷ XVI,
những kẻ chinh phục châu Mỹ mới làm
chủ được bí mật của người
Inca và mới xâm nhập được vào các
kho báu chứa đầy ngọc bích xứ
Columbia.
Với vẻ đẹp hiếm có, ngọc bích
Columbia đă ngự trị trong nghề kim hoàn
đến thế kỷ XIX. Năm 1831, một người
thợ nấu nhựa thông ở Uran tên là Macxim
Cogiepnicôp khi nhặt củi khô trong rừng,
gần con suối Tôcôva, đă t́m thấy viên
ngọc bích đầu tiên ở nước Nga.
Những viên ngọc bích lớn màu lục sáng
của xứ Uran đă nhanh chóng được
những người thợ kim hoàn trên thế
giới thừa nhận.
Trong thời gian làm “quyền chỉ huy” xưởng
mài mặt đá ở Ecaterinbua, Iacop Cocôvin -
một con người liêm khiết, rất am
hiểu về đá và cũng là nghệ nhân làm
đồ đá quư, đă lănh đạo
việc khai thác những mỏ ngọc bích ở
Uran. Năm 1834, một viên ngọc bích rất
lớn, nặng hơn hai kilôgam, t́m được
tại một trong các mỏ ở đấy
đă đến tay ông. Lúc bấy giờ ông
đâu có biết viên đá đẹp đẽ
từng đi vào lịch sử khoáng vật
học với tên gọi “ngọc bích Cocôvin”
ấy sẽ đóng vai tṛ định mệnh
trong số phận của ông.
Người “chỉ huy” đă tự tay mài
những viên đá quư nhất. Lần này, ông cũng
định chính tay ḿnh mài các mặt viên
ngọc khổng lồ. Nhưng ư định
của ông không thực hiện được:
theo một lời tố giác bịa đặt
từ Pêtecbua (Staint Peterburg), một ban điều
tra bất ngờ ập đến, ra lệnh
lụa soát nhà Cocôvin và đă “t́m thấy” viên
ngọc bích mà ông không định dấu đi.
Người ta đă áp giải Cocôvin về
thủ đô cùng với viên ngọc. Bá tước
Perôpxki vốn lừng danh là người sành
sỏi và ưa thích đá quư đă tiến hành
thẩm vấn vụ này. Ông đă đưa
vụ án đến kết thúc mà ḿnh vẫn
hằng mong đợi: bá tước đă
nhốt chàng Cocôvin vô tội vào tù (trong tù, v́ không
chịu đựng được những
lời vu khống bất lương nên ngay sau
đó, người thợ ngọc đă tự sát),
c̣n viên ngọc bích th́ vượt qua kho bạc
nhà nước để đến bổ sung cho
bộ sưu tập của bá tước. Nhưng
viên ngọc cũng không ở đây được
bao lâu: v́ đánh bạc bị thua to nên viên
đại thần danh tiếng này đă đành
ḷng từ giă nó, và viên ngọc bích lại đến
cư ngụ ở nhà viên cố vấn cơ
mật của triều đ́nh là công tước
Cochubây - người chủ của bộ sưu
tập đá quư lớn nhất nước Nga.
Sau khi vị công tước này chết, con trai ông
đă chuyên chở nhiều ngọc quư trong đó
có cả “viên ngọc Cocôvin” sang Viên để
bán hết. Theo thỉnh cầu của viện hàn
lâm Nga, triều đ́nh Nga hoàng đă bỏ ra
một món tiền lớn để mua lại
bộ sưu tập. Viên ngọc bích lớn
nhất thế giới đă trở về Tổ
quốc (Nga) và hiện nay đang được
trưng bày trong viện bảo tàng khoáng vật
học thuộc Viện hàn lâm khoa học Liên Xô
ở Maxcơva.
Ngọc bích là một trong những khoáng vật
của berili. Aquamarin màu xanh nước biển và
Vorobievit màu hồng anh đào, heliođo màu rượu
vang và berin màu lục phớt vàng, fanakit trong
suốt và eucla xanh lam dịu dàng, crizoberin xanh
lục trong trẻo và một biến thể
lạ thường của nó là Alecxanđrit - ban
ngày th́ màu lục đậm, c̣n khi chiếu
đèn vào th́ màu đỏ tươi (nhà văn
N. X. Lexcôp đă mô tả một cách h́nh ảnh:
“buổi sáng xanh tươi và buổi chiều
đẫm máu”) - đó chỉ là một số,
nhưng đó là những đại biểu danh
tiếng nhất của ḍng họ ngọc quư
chứa berili.
[...] Chó Jinđa đi t́m berili - Cây thông kể
chuyện ǵ? - Một thông báo giật gân - Kẻ
khuấy động sự yên tĩnh - Lời
buộc tội nặng nề [...]
Vỏ trái đất tuyệt nhiên không nghèo
berili, mặc dầu berili luôn luôn mang tiếng là
một nguyên tố hiếm. Điều đó
được giải thích bởi một lẽ
là nhiều khi không dễ t́m thấy khoáng
vật chứa berili. Và ở đây, chó - người
bạn lâu đời của con người, có
thể giúp chúng ta. Trong những năm gần
đây, trên sách báo thường xuất hiện
những tin tức về việc t́m kiếm
được khoáng sản nhờ các “nhà địa
chất bốn chân”. Chúng ta đă biết
nhiều sự kiện và huyền thoại về
việc chó dựa theo mùi để t́m kiếm
một vật hoặc một người nào
đó. Nhưng c̣n năng lực địa
chất của chúng th́ như thế nào? Các “nhà
sành quặng xù lông” ấy có thể t́m
được những khoáng vật ǵ?
Tiến sĩ sinh học G. A. Vaxiliep - người
khởi xướng một phương hướng
mới trong việc thăm ḍ các kho tàng thiên nhiên
nằm sâu dưới đất, kể rằng:
“Bộ sưu tập của Viện bảo tàng
khoáng vật học thuộc Viện hàn lâm khoa
học Liên Xô đă giúp chúng ta giải đáp
được câu hỏi đó. Thí nghiệm
với berili kim loại đă tỏ ra rất có
hiệu quả: sau khi ngửi kim loại này, chó
Jinđa đă chọn ra được ngọc bích,
aquamarin, vorobievit, fanakit, bertranđit trong số
rất nhiều khoáng vật, nghĩa là nó đă
chọn được tất cả những khoáng
vật, và chỉ những khoáng vật chứa
berili. Sau đó chúng tôi để lẫn tất
cả các khoáng vật chứa berili với các
mẫu khoáng vật khác, rồi yêu cầu nó t́m
lại. Khi đó, con Jinđa đă đi khắp
nhà bảo tàng, rồi nằm úp ngực vào
chiếc tủ kính mà trong đó có viên ngọc bích
lớn nhất và sủa”.
Các đại biểu của giới thực
vật cũng sẵn sàng đóng góp công sức
của ḿnh vào việc t́m kiếm berili. Cây thông
b́nh thường có thể đóng vai tṛ này v́ nó
có khuynh hướng tuyển chọn berili từ
đất và tích lũy lại trong vỏ cây.
Nếu cây thông mọc ở gần nơi có các
khoáng vật chứa berili th́ hàm lượng nguyên
tố này trong vỏ cây sẽ cao gấp hàng trăm
lần so với trong đất và gấp hàng
chục lần so với trong vỏ cây khác,
chẳng hạn như cây bạch dương hay cây
tùng rụng lá.
Như các bạn đă biết, những người
thợ kim hoàn tỏ ra rất “kính nể”
đối với nhiều loại đá quư
chứa berili, c̣n các nhà công nghệ chuyên sản
xuất berili kim loại th́ lại tinh tường
hơn đối với những thứ quyến
rũ ḿnh: trong số tất cả các khoáng
vật chứa berili, họ chỉ coi trọng
berin mà thôi, v́ chỉ có khoáng vật này mới
có giá trị công nghiệp. Trong thiên nhiên thường
gặp những tinh thể berin khổng lồ:
khối lượng của chúng lên đến hàng
chục tấn, c̣n chiều dài lên đến vài
mét. Gần đây, trên đảo Mađagaxca
đă t́m thấy một đơn tinh thể
berin nặng 380 tấn, chiều dài là 18 mét,
chiều rộng là 3,5 mét.
Tại Viện bảo tàng mỏ ở Lêningrat có
một hiện vật rất thú vị - đó là
một tinh thể Berin dài một mét rưỡi.
Trong mùa đông bị phong tỏa năm 1942, đạn
pháo của địch đă xuyên thủng mái nhà
và nổ ở pḥng chính. Các mảnh đạn
đă làm cho tinh thể bị thiệt hại nghiêm
trọng làm cho nó tưởng như không c̣n
được trưng bày trong bảo tàng
nữa. Nhưng nhờ bàn tay khéo léo của các
nghệ nhân phục chế, tinh thể này đă
được khôi phục lại h́nh dạng ban
đầu. Hiện giờ chỉ c̣n lại hai
mảnh đạn han gỉ, được
khảm vào tấm bảng thuyết minh làm
bằng thủy tinh hữu cơ giới thiệu
về hiện vật này làm cho mọi người
biết đến cuộc phẫu thuật mà nó
đă trải qua.
Chẳng có ǵ đáng ngạc nhiên là ngay từ
xa xưa không phải chỉ những người
ưu thích của quư, mà cả các nhà khoa học
cũng rất chú ư đến các viên đá quư
chứa berili.
Hồi thế kỷ XVIII, khi mà khoa học c̣n chưa
biết đến nguyên tố mà bây giờ
được đặt ở ô số 4 trong
Hệ thống tuần hoàn, th́ nhiều nhà bác
học đă cố gắng phân tích berin, nhưng
không một ai có thể t́m thấy thứ kim
loại chứa trong đó. H́nh như nó ẩn náu
sau lưng nhôm và các hợp chất của nhôm -
tính chất của hai nguyên tố này này
giống nhau đến mức độ kỳ
lạ. Tuy vậy vẫn có những sự khác
biệt. Lui Nicôla Voclanh (Louis Nicolas Vanquelin) - nhà hóa
học Pháp, là người đầu tiên
nhận thấy sự khác biệt ấy. Ngày 26
tháng Mưa năm thứ sáu của lịch
Cộng Ḥa (tức là ngày 15 tháng 2 năm 1798),
tại phiên họp của Viện hàn lâm khoa
học Pháp, Voclanh đă thông báo một tin làm
chấn động dư luận, rằng, trong
berin và ngọc bích có chứa một thứ “đất”
mới có tính chất khác hẳn với đất
phèn hoặc nhôm oxit.
Các muối của nguyên tố mới này có dư
vị hơi ngọt, v́ thế mà Voclanh đă
đề nghị gọi nó là glixini (theo tiếng
Hy Lạp, “glykos” nghĩa là ngọt), nhưng
nhiều nhà bác học khác lại coi tên gọi
ấy là chưa thật đạt, bởi v́
muối của một số nguyên tố khác,
chẳng hạn như của ytri, cũng có
vị ngọt. Theo đề nghị của các nhà
hóa học nổi tiếng là Claprôt (người
Đức) và Ekebơ (người Thụy Điển)
- cả hai ông đều nghiên cứu berin - nguyên
tố hóa học này được gọi là
berili, c̣n tên glixini th́ chỉ tồn tại
một thời gian dài trong sách báo hóa học
của Pháp mà thôi.
Sự giống nhau giữa berili và nhôm đă gây
nên nhiều điều rắc rối cho Đ. I.
Menđelêep - người sáng lập nên Hệ
thống tuần hoàn của các nguyên tố. Nguyên
do là vào giữa thế kỷ XIX, v́ có sự
giống nhau này nên berili được coi là
một kim loại có hóa trị ba với khối
lượng nguyên tử bằng 13,5 v́ thế mà
nó phải chiếm vị trí giữa cacbon và nitơ
trong Hệ thống tuần hoàn. Điều đó
dẫn đến sự lộn xộn rơ rệt
trong quy luật thay đổi tính chất của
các nguyên tố và đă khiến người ta
nghi ngờ tính đúng đắn của định
luật tuần hoàn. Vững tin ở sự đúng
đắn của ḿnh, Menđelêep cho rằng,
khối lượng nguyên tử của berili đă
được xác đinh không đúng, nguyên
tố này không có hóa trị ba, mà phải có hóa
trị hai, và có những tính chất của magie
oxit. Trên cơ sở đó, ông đă đặt
berili vào nhóm thứ hai sau khi sửa lại
khối lượng nguyên tử của nó thành 9.
Chẳng bao lâu sau, các nhà hóa học Thụy Điển
là Nixơn và Petecxơn mà trước đây
vẫn một mực tin rằng berili có hóa
trị ba, đă buộc phải xác nhận điều
đó. Các cuộc nghiên cứu kỹ lưỡng
của hai ông đă cho thấy khối lượng
của nguyên tử này bằng 9,1. Như vậy,
nhờ berili - kẻ khuấy động sự yên
tĩnh trong Hệ thống tuần hoàn, mà một
trong những định luật quan trọng
nhất của hóa học đă giành được
chiến thắng.
Số phận của nguyên tố này có nhiều
điểm giống số phận các nguyên
tố kim loại anh em với nó. Năm 1828, nhà
hóa học Đức là Vuêle (Wholer) và nhà hóa
học Pháp là Buxi (Bussy), một cách độc
lập với nhau, đă tách được berili
ở dạng tự do và măi đến bảy mươi
năm sau nhà bác học Pháp là Lơbô (Paul Lebeau)
mới có thể điều chế được
berili kim loại nguyên chất bằng cách điện
phân các muối nóng chảy của nó. Cũng
dễ hiểu rằng, hồi đầu thế
kỷ XX, các sách tra cứu về hóa học đă
khăng khăng buộc tội berili là “kẻ
ăn bám”, là “chẳng có công dụng thực
tế”
[...] “Bản án” được xem xét lại -
Vào vũ trụ! - Đơn đặt hàng
kỳ lạ - Sẽ không có vụ nổ! - Liên
minh của các kim loại nhẹ nhất [...]
Song sự phát triển như vũ băo của khoa
học và kỹ thuật đặc trưng cho
thế kỷ XX đă buộc các nhà hóa học
và các nhà chuyên môn khác phải xem xét lại
“bản án” quá bất công này. Việc nghiên
cứu berili nguyên chất đă chứng tỏ
rằng, nó có nhiều tính chất quư báu và thú
vị.
Là một trong những kim loại nhẹ nhất,
berili đồng thời lại có độ
bền cao, cao hơn cả các loại thép kết
cấu chứ chưa cần so với các bạn
“đồng nghiệp” của nó trong nhóm kim
loại nhẹ. Chẳng hạn, nếu một
sợi dây nhôm có tiết diện một milimet
vuông chỉ đủ sức chịu đựng
hơn 10 kilogam (bằng một xô nước), th́
một sợi dây berili có cùng tiết diện như
thế sẽ chịu được một
khối lượng gấp sáu lần, tức là
bằng khối lượng thân thể một người
lớn. Ngoài ra, berili c̣n nóng chảy ở
nhiệt độ cao hơn nhiều so với
nhôm và magie. Sự kết hợp các tính chất
một cách tốt đẹp như vậy đă
làm cho berili ngày nay trở thành một trong
những vật liệu chủ yếu của
ngành hàng không. Các chi tiết của máy bay làm
bằng kim loại này nhẹ hơn hẳn so
với các chi tiết bằng nhôm.
Tính dẫn nhiệt tuyệt vời, nhiệt dung
và tính bền nhiệt cao đă cho phép sử
dụng berili và các hợp chất của nó làm
vật liệu giữ nhiệt trong kư thuật vũ
trụ. Chẳng hạn, các bộ phận giữ
nhiệt trong buồng lái của con tàu vũ
trụ “Mercury” đều làm bằng berili.
V́ các chi tiết làm bằng berili bảo đảm
cho các kích thước có độ chính xác và
tính ổn định cao nên chúng được
sử dụng trong các khí cụ con quay hồi
chuyển; các khí cụ này nằm trong hệ
thống định hướng và b́nh ổn
của các tên lửa, các con tàu vũ trụ và
vệ tinh nhân tạo của Trái đất.
C̣n một tính chất nữa của berili
khiến nó rất có triển vọng trong lĩnh
vực chinh phục vũ trụ: khi đốt
cháy, nó tỏa ra nhiệt lượng rất
lớn. Về mặt này th́ không một kim
loại nào khác cạnh tranh được
với nó. Không phải ngẫu nhiên mà các công
tŕnh sư về kỹ thuật vũ trụ
lại coi berili là một thành phần có thể
tạo nên thứ nhiên liệu tên lửa có năng
lượng cao dùng cho các chuyến bay lên mặt
trăng và đến các thiên thể xa hơn
nữa. Người ta cũng đề nghị
dùng berili để chế tạo các b́nh chứa
nhiên liệu của các hệ thống tên
lửa: khi nhiên liệu cháy hết, có thể
sử dụng ngay "bao b́" bằng berili làm
nhiên liệu.
Các hợp kim của đồng với berili
gọi là đồng đỏ berili được
sử dụng rộng răi trong ngành hàng không.
Nhiều chi tiết phải đ̣i hỏi phải
có độ bền lớn, có sức chống
mỏi và chống ăn ṃn cao, giữ được
tính đàn hồi trong khoảng nhiệt độ
rộng, có độ dẫn điện và độ
dẫn nhiệt tốt đă được
chế tạo từ các hợp kim đó. Người
ta ước tính rằng, trong một máy bay
hiện đại hạng nặng có hơn
một ngàn chi tiết được chế
tạo bằng các hợp kim này. Nhờ có tính
chất đàn hồi nên đồng đỏ
berili là loại vật liệu tuyệt vời
để làm lo xo. Trong thực tế, ḷ xo làm
bằng hợp kim này không bị mỏi: chúng có
thể chịu đựng được hàng
tỷ chu kỳ tải trọng lớn!
Nhân đây xin kể một t́nh tiết thú
vị trong lịch sử chiến tranh thế
giới hai có liên quan đến ḷ xo. Lúc bấy
giờ, nền công nghiệp của Hitle bị
cắt rời khỏi nguồn berili chủ
yếu. Trên thực tế, nước Mỹ
nắm toàn bộ sản lượng thế
giới về thứ kim loại chiến lược
quư báu này. Thế là người Đức
phải t́m mưu mẹo. Họ quyết định
sử dụng nước Thụy Sĩ trung
lập để mua lậu đồng đỏ
berili: các hăng của Mỹ đă nhận
được đơn đặt hàng từ
những người “thợ đồng
hồ” Thụy Sĩ xin mua hợp kim này với
lượng đủ dùng để làm ḷ xo
đồng hồ cho toàn thế giới trong
khoảng năm trăm năm về sau. Sự
thực th́ mánh khóe này đă bị bại
lộ nên đơn đặt hàng ấy không
được thực hiện. Nhưng dần
dần, ḷ xo bằng đồng đỏ berili
vẫn có mặt trong các loại súng liên thanh
cực nhanh mới nhất đặt trên máy bay
để trang bị cho quân đội phát xít.
Tính mỏi là một trong những “bệnh
nghề nghiệp” của nhiều kim loại và
hợp kim. V́ không chịu được tải
trong thay đổi hướng liên tục nên các
kim loại và hợp kim này dần dần bị
phá hủy. Song nếu thêm vào thép một lượng
berili, dù rất nhỏ, cũng có tác dụng như
một cánh tay hứng đỡ sự mệt
mỏi. Nếu như các nhíp ô tô làm bằng
thép cacbon thông thường sẽ bị gẫy
sau 800 - 850 ngàn lần xô đẩy, th́ sau khi pha
thêm “vitamin Be” vào thép, nhíp sẽ chịu đựng
được hàng chục triệu lần xô
đẩy mà không tỏ ra có dấu hiệu
mỏi mệt.
Khác với thép, đồng đỏ berili không
phát ra tia lửa khi va đập vào đá
hoặc kim loại, v́ thế mà nó được
sử dụng rộng răi để chế
tạo các dụng cụ dùng ở những nơi
dễ gây nổ như trong các hầm mỏ, các
nhà máy sản xuất thuốc nổ, các trạm
xăng dầu.
Berili có ảnh hưởng rơ rệt đến
các tính chất của magie. Chẳng hạn,
chỉ cần pha thêm vài chục phần triệu
berili cũng đủ giữ cho các hợp kim
magie không bị bốc cháy khi nấu chảy và
khi đúc (tức là ở khoảng 700 độ
C). Khi đó độ ăn ṃn của các hợp
kim này trong không khí cũng như trong nước
sẽ giảm hẳn.
Chắc hẳn một triển vọng to lớn
sẽ thuộc về các hợp kim của berili
với liti. Sự liên minh của hai kim loại
nhẹ nhất này có thể sẽ dẫn đến
sự ra đời các hợp kim kết cấu
tuyệt vời, vừa bền như thép lại
vừa nhẹ như gỗ.
Dựa vào các tính chất hóa học của ḿnh
mà berili có thể đảm nhiệm rất
tốt vai tṛ chất khử oxi cho thép, giúp thép
chống lại sự xâm nhập của oxi. Đáng
tiếc rằng, berili vẫn c̣n quá đắt
nên các nhà luyện kim chưa thể sử
dụng nó với khối lượng lớn. Tuy
nhiên, họ đă t́m ra được một lĩnh
vực sử dụng berili quan trọng khác mà
trong đó không tiêu tốn nhiều kim loại
này. Đó là dùng nó để băo ḥa bề
mặt các chi tiết bằng thép - gọi là
sự berili hóa, nhằm nâng cao độ cứng,
độ bền và khả năng chống mài
ṃn của chúng.
Các nhà kỹ thuật rơngen rất ưu
chuộng kim loại này v́ nó để cho tia rơngen
đi qua dễ dàng, hơn hẳn các kim loại
khác. Hiện nay, trên toàn thế giới, người
ta đều dùng berili làm “cửa sổ” cho
các ống rơngen. Khả năng cho tia rơngen
đi qua của các “cửa sổ” này cao
gấp gần hai chục lần so với các
“cửa sổ” bằng nhôm mà trước
đây vẫn được sử dụng vào
mục đích này.
[...] Một phát minh quan trọng - Nơtrron làm
chậm cuộc chạy đua - Âm thanh phá vỡ
kỷ lục - “Kim nguyên tử” - Những viên
ngọc làm bằng tay [...]
Berili đă đóng vai tṛ nổi bật trong
sự phát triển của học thuyết về
cấu tạo nguyên tử và hạt nhân nguyên
tử. Ngay từ hồi đầu những năm
ba mươi, khi bắn phá hạt nhân berili
bằng hạt anfa, các nhà vật lư học người
Đức là Bothe và Becker đă khám phá ra cái
gọi là “bức xạ berili”, tuy rất
yếu nhưng lại có sức đâm xuyên
rất mạnh: xuyên qua lớp ch́ dày vài centimet.
Năm 1932, nhà bác học người Anh là Chadwick
đă xác định được bản
chất của bức xạ này. Hóa ra, đó là
một ḍng các hạt trung ḥa về điện
với khối lượng mỗi hạt xấp
xỉ bằng khối lượng của proton.
Những hạt mới này đă được
gọi là nơtron.
V́ không mang điện nên các nơtron dễ xâm
nhập vào hạt nhân nguyên tử của các
nguyên tố khác. Tính chất này làm cho nơtron
trở thành viên đạn hữu hiệu
nhất để bắn phá hạt nhân nguyên
tử. Hiên nay, “đại bác nơtron”
được sử dụng rộng răi để
thực hiện các phản ứng hạt nhân.
Việc nghiên cứu cấu trúc nguyên tử
của berili đă cho thấy đặc trưng
của nó là tiết diện bắt giữ nơtron
th́ nhỏ mà trị số phân tán nơtron th́
lớn. V́ vậy, berili phát tán nơtron, làm thay
đổi hướng chuyển động và
ḱm hăm tốc độ của chúng cho đến
trị số thích hợp để các phản
ứng dây chuyển xảy ra một cách có
hiệu quả hơn. Trong số tất cả
các vật liệu rắn th́ berili được
coi là chất ḱm hăm nơtron tốt nhất. Nó
tỏ ra tuyệt vời khi đóng vai tṛ chất
phản xạ nơtron, đưa các nơtron
trở về vùng hoạt động của các
ḷ phản ứng, ngăn giữ chúng lại,
không để cho chúng bị tản mát. Berili c̣n
có tính chống bức xạ rất cao, kể
cả ở nhiệt độ rất lớn.
Tất cả những tính chất tuyệt
diệu này đă làm cho berili trở thành một
trong những nguyên tố cần thiết nhất
của kỹ thuật nguyên tử.
Khả năng truyền âm của berili rơ ràng là
một điều mà khoa học rất đáng
quan tâm. Trong không khí, tốc độ của âm
thanh là 330 mét trong một giây, c̣n trong nước
là 1500 mét trong một giây. C̣n trong berili th́ âm
thanh phá vỡ tất cả các kỷ lục
đó và đạt đến tốc độ
12.600 mét trong một giây (gấp 2 -3 lần so
với trong các vật liệu kim loại khác).
Những người chế tạo nhạc cụ
đă chú ư đến đặc điểm này.
Cả berili oxit cũng có nhiều tính chất quư
báu. Tính chịu lửa tốt (nhiệt độ
nóng chảy trên 2500 độ C), độ
bền hóa học lớn và độ dẫn
nhiệt cao cho phép sử dụng vật liệu
này làm lớp lót các ḷ cảm ứng, làm
nồi để nấu chảy các kim loại và
hợp kim. Chẳng hạn, để nấu
chảy berili trong chân không, người ta chỉ
dùng nồi làm bằng berili oxit, v́ chất này
hoàn toàn không tương tác với berili. Oxit này
là vật liệu chủ yếu để bọc
các bộ phận tỏa nhiệt của ḷ
phản ứng nguyên tử.
Tính chất cách nhiệt của berili oxit cũng
có thể được sử dụng trong
việc nghiên cứu các tầng đất sâu
của hành tinh chúng ta. Có một dự án lấy
mẫu đất đá từ lớp vỏ manti
của trái đất ở độ sâu 32 km
nhờ cái gọi là “kim nguyên tử” - một
ḷ phản ứng hạt nhân tí hon đặt
trong một vỏ bọc cách nhiệt làm bằng
berili oxit và có mũi nhọn bằng hợp kim
vonfram nặng.
Berili oxit đă có “thâm niên công tác” cao trong
công nghiệp thủy tinh. Pha thêm nó sẽ làm tăng
độ cứng, tăng chiết suất và
độ bền hóa học của thủy tinh.
Việc pha thêm berili oxit và các hợp chất khác
của berili cho phép làm được những
loại thủy tinh đặc biệt có độ
trong suốt cao đối với tất cả
các tia quang phổ - từ tia tử ngoại đến
tia hồng ngoại.
Berili oxit c̣n được dùng làm nguyên liệu
ban đầu để làm ra ngọc bích nhân
tạo và các loại ngọc chứa berili khác khi
chúng được nuôi cấy trong điều
kiện áp suất và nhiệt độ cao.
Hiện nay, quá tŕnh này đă được
thực hiện không phải chỉ trong các pḥng
thí nghiệm khoa học, mà c̣n cả trong
những điều kiện sản xuất.
... Những lời tiên đoán của A. E. Fexman -
nhà bác học lỗi lạc có nhiều ước
mơ, đă trở thành sự thật. Chỉ
một thời gian ngắn nữa thôi, berili
sẽ đáp ứng được những hy
vọng mà người ta đang đặt vào
nó. Từ một nguyên tố hiếm ít người
biết đến, ngày nay nó đă trở thành
một trong những kim loại quan trọng
nhất của thế kỷ.
|
|