Điều mong ước “b́nh
dị” – Quả hồ đào quá cứng –
Trong Thung lũng của các vua – Những nỗi
lo âu của Semiramit - Để cho thuận
tiện – Một cuộc “phẫu thuật” –
Cả ngày lẫn đêm.
Vàng! … Trong lịch sử hàng ngàn năm của
loài người, chưa từng có một kim
loại nào khác lại đóng vai tṛ tàn ác đến
thế. Để giành giật quyền chiếm
hữu vàng mà nhiều cuộc chiến tranh đẫm
máu đă diễn ra, nhiều quốc gia, nhiều
dân tộc đă bị tiêu diệt, biết bao hành
vi tội ác đă được thực
hiện. Kim loại có màu vàng đẹp đẽ
này đă gieo rắc cho con người biết bao
nỗi đau khổ, đắng cay ...
Có lẽ vua Miđat của xứ Phrygia là người
đầu tiên phải chịu đựng
những nỗi phiền muộn và lo âu do vàng
đem lại. Một huyền thoại cổ Hy
Lạp đă kể về điều đó.
Một hôm, con trai của thần Zơt là Đionit
- vị thần của rượu vàng và hoan
lạc, cùng đông đảo thuộc hạ
của ḿnh dạo chơi trên đất Phrygia
tuyệt đẹp. Đoàn người huyên náo
cứ đi, dần dần để rơi
lại cụ Silen say mèm - đó là vị gia sư
đáng yêu của thần Đionit. Những người
nông dân Phrygia thấy vậy liền lấy dây
đeo đầy hoa buộc cụ lại rồi
dẫn đến cho vua Miđat. Nhà vua nhận ra
ngay ông cụ silen hiền hậu đang say, đă
đón tiếp cụ trong cung điện và
mở tiệc khoản đăi để tỏ ḷng
tôn kính vị khách quư. Đến ngày thứ mười,
Miđat thân hành dẫn cụ Silen về với
Đionit. Vị thần này rất mừng rỡ
và hứa sẽ thực hiện mọi mong ước
của vua Miđat.
Vua xứ Phrygia sung sướng kêu lên : “ Hỡi
thần Đionit vĩ đại, ngài hăy phán
truyền những ǵ tôi chạm đến đều
hoá thành vàng lấp lánh”. Ước mong “b́nh
dị” này đă được thực
hiện, và Miđat hớn hở trở về
cung. Dọc đường, ông ta bẻ một cành
sồi xanh, lập tức nó biến thành vàng; nhà
vua chạm tay vào những bông lúa trên đồng
ruộng, tức th́, những hạt lúa liền
biến thành những hạt vàng; ông ta hái
một quả táo, lập tức, nó toả ánh vàng
sáng chói; ông ta định rửa tay th́ nước
trong ḷng bàn tay chảy ra thành những tia vàng. Miđat
vui mừng khôn xiết. Nhưng khi nhà vua ngồi
vào bàn ăn th́ chợt hiểu rằng, ḿnh
đă cầu xin Đionit một món quà thật
khủng khiếp. Cứ mỗi lần đụng
đến là tất cả mọi thứ –
cả bánh ḿ, rượu nho, thức ăn - đều
biến thành vàng. Đang bị cái chết v́
đói và khát đe doạ, nhà vua hoảng sợ
và đành phải chắp tay lên trời và kêu nài:
“Hăy động ḷng thương, hỡi thần
Đionit! Hăy tha thứ cho tôi, cầu xin ngài thương
t́nh. Xin ngài hay thu hồi món quà này!”. Theo
lệnh Đionit, Miđat đă đến sông
Pacton. Nước sạch đă rửa hết món
quà mà lăo ta không xơi nổi.
Nếu vua xứ Phrygia đă đảm nhận
vai tṛ không lấy ǵ làm vinh hạnh là mở
đầu danh sách những nạn nhân của
sự sùng bái vàng, th́ ở thời đại
của chúng ta cũng có một bà nào đó
tuổi tác đă cao, đúng là dùng răng
vạch tên ḿnh vào cuốn sách này. Sự thể
như sau.
Tại một khách sạn sang trọng nhất
của Nhật Bản, một công ty kinh doanh du
lịch đă đặt một bồn tắm
bằng vàng nguyên chất. Mặc dầu giá đắt
ghê người, song vẫn rất nhiều kẻ
muốn tắm trong cái bồn đó. Thu nhập
của công ty này tăng lên vùt vụt. Nhưng
những lo lắng mỗi ngày một tăng.
Thậm chí phải thuê cả một đội
thám tử, v́ một số khách khi đi vào pḥng
tắm đă đem theo những cái đục
dấu kín trong khăn mặt và cố gắng
đục đẽo dù chỉ lấy một ít
vàng thôi “để kỉ niệm”. Những
vệ binh cảnh giác đă không để cho các
nhà sưu tập “vật lưu niệm” mang
theo bất cứ vật dụng ǵ. Bây giờ, khách
hàng đành phải trông cậy vào bản thân ḿnh
mà thôi. Thế là chính cái bà mà chúng ta vừa nói
đến ấy đă quyết định … dùng
răng gặm mép bồn tắm bằng vàng khi
thời gian tắm của bà ta sắp hết. Nhưng
quả hồ đào không dễ mà nhá được,
chỉ mấy ngày sau, bà ta đành phải đi
tậu một hàm răng giả.
Người ta đồn rằng, h́nh như công
ty này đang phấn chấn v́ sự phát đạt
nên không muốn dừng lại ở mức đă
đạt được, và c̣n định đặt
những cái chậu hố xí bằng vàng trong
hố xí các khách sạn sang trọng nhất
của ḿnh.
Ư định đó tự nó không có ǵ là
mới. Ngay từ năm 1921, để diễn
đạt một cách cường điệu
sự khinh bỉ của ḿnh đối với
thần tượng màu vàng, V. I. Lênin đă
viết : “Sau khi chúng ta chiến thắng trên quy
mô thế giới, tôi nghĩ rằng, chúng ta
sẽ làm các hố xí công cộng bằng vàng trên
các đường phố của một số thành
phố lớn nhất trên thế giới”. Và Người
c̣n nói thêm: “C̣n bây giờ, ở nước
Cộng hoà xă hội chủ nghĩa Xô - viết
liên bang Nga, cần phải giữ vàng, bán nó
thật đắt và dùng nó để mua hàng hoá
thật rẻ”.
Lịch sử của vàng đó là lịch sử
của nền văn minh. Những hạt vàng
đầu tiên đă lọt vào tay người
từ vài ngàn năm nay, và ngay từ lúc bấy
giờ, nó đă được đặt vào hàng
kim loại quư. Ai Cập được coi là nước
giàu vàng nhất trong thế giới cổ đại.
Không phải ngẫu nhiên mà trong các cuộc khai
quật các lăng mộ của giới quyền
quư Ai Cập, các nhà khảo cổ học đă
t́m thấy nhiều đồ trang sức và
những đồ dùng khác bằng vàng. Một
trong những người tham gia cuộc xâm
nhập đầu tiên vào ngôi mộ của
một faraon mà chưa ai biết tên, được
t́m thấy hồi năm 1907 ở “Thung lũng
của vua chúa” gần Thebes ở tả ngạn
sông Nin đă viết : “Tia sáng đầu tiên
vừa mới rọi vào, ánh vàng đă sáng
ngời lên khắp mọi chỗ … Vàng trên sàn
nhà, vàng trên các bức tường, vàng ở
đằng kia, ở góc xa nhất, nơi có
chiếc quan tài đặt cạnh bức tượng.
Vàng sáng ngời rực rỡ như vừa
mới ra khỏi bàn tay của những người
thợ vàng lành nghề …”.
Mười lăm năm sau cũng tại đây,
nhà khảo cổ học người Anh Hovar Catơ
(Howard Carter) đă phát hiện được ngôi
mộ của faraon Tutankhamen từng trị v́
hồi thế kỷ XIV trước công nguyên.
Những tác phẩm vô giá của nghệ
thuật cổ đại đă được
bảo tồn hàng ngàn năm ở đây, trong
số đó có nhiều thứ bằng vàng nguyên
chất. Xác ướp của vị faraon trẻ
tuổi yên nghỉ trong chiếc quan tài bằng vàng
nặng 110 kilôgam. Chiếc mặt nạ của
Tutankhamen đẹp cực kỳ, nó được
làm bằng vàng và các thứ ngọc đủ
mọi màu sắc, chạm trổ rất khéo.
Nhưng chỉ một phần rất nhỏ trong
vô vàn của cải từng bao quanh vị vua
thời cổ này khi c̣n sống được
đem theo xuống mồ và nhà mồ. Chẳng
hạn, theo truyền thuyết, muốn được
thần linh phù hộ, nữ hoàng Semiramit xứ
Assyria đă đúc những bức tượng
thần khổng lồ bằng vàng nguyên chất.
Một bức tượng như vậy cao 12 mét,
cân nặng một ngàn talant Babilon (khoảng 30
tấn). Bức tượng nữ thần Rea c̣n
đồ sộ hơn nhiều: để làm
bức tượng này, phải tốn tám ngàn
talant vàng nguyên chất (ngót 250 tấn). Tượng
nữ thần ngự toạ trên ngai vàng, hai con sư
tử lớn bằng vàng làm “vệ sĩ”
đứng hai bên.
Những đồng tiền vàng đầu tiên
đă xuất hiện khoảng hai ngàn năm trăm
năm trước đây. Quê hương của
chúng là Lyđia – một quốc gia chiếm
hữu nô lệ hùng mạnh nằm ở phần
phía tây Tiểu Á. Lyđia buôn bán rộng răi
với Hy Lạp và các nước láng giềng phương
đông của ḿnh. Để tiện việc giao
dịch buôn bán, người Lyđia đă cho lưu
hành tiền đúc bằng vàng, gọi là stater,
trên đó in h́nh con cáo đang chạy – biểu
tượng của thần Basarea, vị thần
chính của xứ Lyđia.
Sau khi Lyđia bị vua Kyros của nước Ba Tư
chinh phục, các nước khác thuộc vùng
Cận Đông và Trung Đông cũng bắt đầu
đúc tiền vàng. Chẳng hạn, đồng
đaric – tiền của vua Đarius nước
Ba Tư, trên đó in h́nh nhà vua đang bắn
cung, đă được lưu hành rộng răi.
Trong số các vua chúa cũng có những vị
đă bổ sung tiền vàng cho ngân khố
của ḿnh một cách rất độc đáo.
Năm 1285, Philip IV với biệt danh là Hào hoa
đă trở thành vua nước Pháp. Ông ta có
thực sự là người tốt hay không,
điều đó thật khó nói, nhưng có
rất nhiều sự việc chứng tỏ
rằng, ông ta là một nhà cầm quyền
xảo quyệt và tham lam. V́ muốn mở
rộng quyền lực của ḿnh, ông ta đă
dấy lên những cuộc chiến tranh liên miên,
tốn rất nhiều tiều của. Thường
xuyên cảm thấy những khó khăn về tài
chính, mà có lẽ không chịu được
sự chi tiêu quá dè xẻn nên nhà vua đă dùng
đến sự lừa gạt và mọi thủ
đoạn xảo trá. Theo mật lệnh của
ông ta, những đồng tiền vàng cướp
bóc được đều phải qua một
cuộc “phẫu thuật” tại xưởng
đúc tiền: chúng đă bị gọt dũa,
rồi những mạt vàng ấy lại phải
đúc thành những đồng tiền mới.
Phương pháp “sản sinh” tiền như
vậy đă cho phép cứ 100 đồng tiền
th́ làm ra được110 – 115 đồng
tiền khác, c̣n nếu cố gắng th́ có
thể làm được nhiều hơn. Philip IV
đích thân giám sát việc sản xuất
tiền mới, và thật khốn khổ cho người
nào không ủng hộ việc làm của nhà vua.
Thời trung cổ, nghề giả kim thuật
rất thịnh hành, nó trở thành niềm say mê
của tất cả mọi người, từ già
đến trẻ. Từ xa xưa, những ư
đồ biến các kim loại khác thành vàng
đă được thực thi, nhưng trước
đó chưa có lúc nào chúng mang tính chất
quần chúng đến thế. Ngày cũng như
đêm, trong các căn hầm của các lâu đài
tối tăm bằng đá, ngọn lửa trong ḷ
của các nhà giả kim thuật toả sáng, các
chất lỏng huyền bí trong các b́nh cổ cong
sôi lên sùng sục trên ngọn lửa và toả
ra đủ mọi màu sắc cầu vồng, khói
ngột ngạt bốc lên từ các nồi hơi
và nồi nung.
Thủ đoạn của “Râu xanh” – Trước
lúc rạng đông – Tiền chuộc mạng
của Atauanpa - Đền thờ mặt trời -
Đại dương báo thù – Những “cơn
sốt vàng”.
Tin tưởng vào khả năng t́m ra “ḥn đá
mầu nhiệm” để nhờ nó mà thu
được vàng, các nhà giả kim thuật và
những người bảo trợ họ t́m
mọi cách vượt lên trên các đối
thủ của ḿnh. Từ đó đă nảy sinh
mối nghi kỵ lẫn nhau, đă xuất
hiện những nguyên cớ cho những lời
buộc tội độc ác để khép nhau vào
những tội trạng tưởng như là có
thật. Chẳng hạn, năm 1440, thống
chế Pháp Jin đơ Lavan (Jill de Laval) (nam tước
đơ Retz) – con người từng đi vào
lịch sử với cái tên gớm ghiếc là
“Râu xanh”, bị gán tội đă giết
chết hàng trăm thiếu nữ, mà theo lời
lẽ của nhà thờ, ông ta cùng với bạn
ḿnh là nhà giả kim thuật Franxoa Prelati (Francois
Prelatti) đă lấy máu của các thiếu
nữ để làm ra vàng. Theo yêu cầu của
giám mục xứ Nantơ, nam tước
đơ Retz và Prelati đă bị trao vào tay toà
án của giáo hội và ngay sau đó, đă
bị thiêu trên giàn lửa. Gần năm thế
kỷ sau, năm 1925, dưới đống đá
vụn nát của toà lâu đài mà xưa kia nam tước
đơ Retz đă sống người ta phát
hiện ra những mảnh thạch anh chứa vàng
mà từ đó Prelati đă khai thác vàng cho “Râu
xanh”.
Đầu thế kỷ XVI, khi mà những khát
vọng giả kim thuật c̣n sôi sục ở
châu Âu, bọn thực dân Tây Ban Nha và Bồ
Đào Nha đă t́m ra một phương thức
t́m vàng chóng thu lợi hơn: chúng tổ chức
những cuộc cướp bóc dă man tại các
quốc gia ở châu Mỹ mà Crixtop Colong (Christoph
Colomb) đă phát hiện ra năm 1492. Vàng do các
bộ tộc người Aztec, người Inka, người
Maya và các bộ tộc khác ở Tân đại
lục tích luỹ qua nhiều thế kỷ đă
ùn ùn đổ về châu Âu.
Bọn thực dân không c̣n phải mơ tưởng
những kho của quư huyền bí nữa,
những kho của quư đă hiện ra trước
mắt chúng trên đất châu Mỹ. Năm 1915,
Ernan Coctec đổ bộ lên cảng Veracuz,
thổ dân da đỏ vốn không ngờ kẻ
da trắng mới đến này đă chuẩn
bị sẵn cho họ một số phận bi
thảm nên đă mang quà đến tăng y;
ngoài vô số đồ trang sức, có hai cái
đĩa to tướng bằng bánh xe ngựa,
làm bằng vàng và bạc. Hai cái đĩa này tượng
trưng cho mặt trời và mặt trăng.
Ở các dân tộc xưa kia từng cư trú
trên đất Mỹ La tinh, vàng được
coi là thứ kim loại thiêng liêng, là kim loại
của thần mặt trời. Các nhà quyền
quư và các vị pháp sư của họ đă nghĩ
đến khá nhiều nghi lễ để
chứng tỏ mối liên quan không thể phá
vỡ được giữa quyền lực
của những kẻ mạnh ở thế
giới này và sự giàu có mà các vị thần
đă ban cho họ dưới dạng vàng. Trong
số các nghi lễ như vậy, có nghi lễ
sau đây. Vào giờ trước lúc rạng
đông, các tù trưởng của người
Aztec xoa dầu thơm lên thân thể, sau đó,
họ rắc bột vàng lên người theo tín
hiệu của vị pháp sư tối cao. Vị
tù trưởng “thếp vàng” ngồi chễm
chệ trên một chiếc bè cói giữa đám
tuỳ tùng rồi khởi hành trên mặt hồ,
hướng về phía mặt trời mọc. Khi
vầng thái dương đỏ rực nhô lên
khỏi núi th́ bắt đầu tiến hành
trọng thể lễ tắm gội của tù trưởng.
Trong lễ này, các vị pháp sư rắc
nhẫn, ṿng xuyến, quả lắc và những
đồ trang sức khác từ những cốc
chén bằng vàng lên ḿnh vị tù trưởng.
Sau nghi lễ này, không ai c̣n nghi ngờ về
việc vị chúa tể của họ là con
của mặt trời.
Trong các đền đài cũng tích tụ
những lượng vàng rất lớn. Trần
của một ngôi đền được
gắn những ngôi sao bằng vàng, những con
chuồn chuồn, bươm bướm, chim chóc
bằng vàng, tưởng như chúng đang bay lượn
trên đầu mọi người, đẹp
đến nỗi gây nên cảm giác mê ly
tuyệt diệu ở tất cả những ai có
dịp vào thăm ngôi đền này.
Franxixco Pixaro (Francisco Pisarro) là một trong những
kẻ cầm đầu cuộc chinh phạt
của người Tây Ban Nha. Hồi đầu
những năm 30 của thế kỷ XVI, y đă
đặt chân lên đất đai của người
Inka, nơi mà lúc bấy giờ đang diễn ra
những cuộc cấu xé nhau trong bộ tộc
của họ. Lúc đầu, bản thân sự
xuất hiện của những người xa
lạ không báo trước một tai hoạ ǵ
đối với người Inka. Trái lại,
thủ lĩnh của họ là Atauanpa – vị
“Inka vĩ đại”, đă quả quyết
rằng, đó là các vị thần hiện ra
để giúp ông ta kết thúc cuộc chiến
tranh một cách thắng lợi.
Pixaro đă mời vị Inka vĩ đại
đến dự tiệc. Atauanpa đă đến
một cách đắc chí, trên chiếc kiệu
vàng trang điểm bằng lông chim. Ông ta cũng
như bọn tuỳ tùng đều không mang vũ
khí. Tên thực dân nham hiểm chỉ cần có
thế. Theo ám hiệu của y, bọn Tây Ban Nha
đă xông vào các vị khách, đánh tan tác lũ
tuỳ tùng và bắt vị thủ lĩnh để
cầm tù.
Sau khi giam giữ Atauanpa được vài ngày dưới
sự canh pḥng cẩn mật, Pixaro hứa sẽ
trả lại tự do cho ông ta nếu trong ṿng
hai tháng kịp chất đầy vàng trong căn
pḥng lớn nơi ông ta bị giam giữ, đến
chiều cao ngang tay người với tới.
Vị “Inka vĩ đại” đă chấp
nhận điều kiện chuộc mạng
kỳ quái đó. Các sứ giả của Atauanpa
được phái đi khắp cả nước,
và chẳng bao lâu, những đoàn người
khuân vác, c̣ng lưng dưới sức nặng
của chai lọ vàng, tượng vàng, đồ
trang sức và những vật phẩm khác
bằng vàng lũ lượt kéo về nơi ông
bị giam cầm. Đống vàng đă cao
dần, tuy vậy, khi hai tháng đă trôi qua, căn
pḥng vẫn chưa chứa vàng cao như đă
thoả thuận. Mặc dù vị thủ lĩnh
của người Inka đă thuyết phục
Pixaro rằng, hăy chờ ít lâu nữa thôi, nhưng
tên này đă quyết định giết ông ta,
v́ bọn thực dân Tây Ban Nha nghĩ rằng,
vị Inka vĩ đại có thể là kẻ thù
nguy hiểm đối với chúng.
Khi biết tin về cái chết của Atauanpa th́
các đoàn lạc đà trở vàng đang trên
đường đi. Người Inka vội vàng
đi chuộc vị thủ lĩnh của ḿnh, nhưng
sau khi biết rằng ông đă bị bọn
thực dân Tây Ban Nha giết chết, họ
liến cất giấu toàn bộ số đồ
quư giá đó trong núi Azangar (nghĩa là “nơi xa
xôi nhất”). Trong số những của cải
tuột khỏi tay bọn xâm lược, có
một chuỗi xích đồ xộ bằng vàng,
mà theo truyền thuyết th́ phải hơn hai trăm
người mới nhấc nổi.
Nhưng người Inka không thể cất
giấu hết mọi của cải của ḿnh.
Người Tây Ban Nha đă chiếm cứ và cướp
bóc Cuxco – một trong những thành phố giàu
có nhất Pêru. Đền mặt trời lợp
vàng là công tŕnh trang trí của thành phố này.
Các bức tường và trần của pḥng
giữa ngôi đền được trang điểm
bằng những tấm vàng, c̣n ở phía đông
có một đĩa vàng toả vầng hào quang,
đó là bộ mặt của vị thần, có
cặp mắt bằng ngọc quư nhô lên. Khi
những tia nắng đầu tiên của mặt
trời ban mai chiếu vào đĩa này th́
cặp mắt huyền bí của vị thần
rực lên những ngọn lửa muôn màu.
Một khu vườn bằng vàng nằm sát ngôi
đến. Cây cối, bụi rậm, chim chóc –
mọi thứ đều được làm
bằng vàng rất khéo. Trong vườn có
những chiếc ngai bằng vàng, các pho tượng
của các vị Inka vĩ đại – con
của mặt trời – ngự toạ trên đó.
Chỉ qua vài tuần lễ sau khi Pixaro đến
đây, thành Cuxco thiêng liêng đă bị cướp
bóc đến tận nền. Bọn thực dân
Tây Ban Nha đă tàn nhẫn huỷ diệt nền
văn hoá lâu đời do người Inka sáng
tạo nên sau nhiều thế kỷ. Chúng đă
nấu chảy những công tŕnh nghệ thuật
quư giá nhất của các nghệ nhân cổ xưa
để đúc thành những thỏi vàng
tiện lợi cho việc vận chuyển qua
đại dương.
Trong suốt hai trăm năm, các đoàn tàu
chở vàng hàng năm rời bờ biển Tân
đại lục hướng về bán đảo
Pyrene. Nhưng dường như để trả
thù bọn ăn cướp, đại dương
đă nhiều lần giật khỏi tay chúng
những thứ của mà chúng ăn cướp
được rồi giấu kỹ dưới
đáy những vực thẳm.
Năm 1622, cách bờ biển Floriđa không xa, hai
tàu biển “Santa Margarita” và “Nuestra Senora de
Atocha” đă bị đắm v́ không chịu
được băo lớn khủng khiếp, chúng
đă mang một lượng vàng rất lớn
cùng nhiều thứ đồ quư giá khác
xuống đáy biển. Hai chục năm sau đó,
một cơn băo dữ dội đă đánh
đắm mười sáu chiếc tàu của
“Hạm đội vàng” khi chúng trên đường
về cảng Sevila của Tây Ban Nha. Các tư
liệu lịch sử trong các kho lưu trữ cho
biết rằng, tổng giá trị hàng hoá
của những chiếc tàu này (mà chủ
yếu, chúng trở vàng) vào khoảng vài chục
triệu đô la. Đại dương đă
“nuốt chửng” mười bốn chiếc
tàu của “Hạm đội vàng” ở bờ
biển châu Mỹ vào mùa xuân năm 1715 khi ở
đây nổi lên một cơn băo có sức phá
hoại chưa từng thấy.
Theo ước tính của các nhà sử học,
chỉ riêng trên biển Caribê đă có khoảng
một trăm xác tàu đang yên nghỉ. Cũng
khoảng ngần ấy chiếc tàu đă ch́m
đắm ở vùng biển đông nam Floriđa.
Các quần đảo Bahama và Becmuđa là nghĩa
địa của hơn sau mươi chiếc
tàu Tây Ban Nha. Cuối cùng, khoảng bảy mươi
chiếc tàu c̣n nằm dưới đáy vịnh
Mêxico. Tất cả những chiếc tàu ấy
đều có thể gọi là những chiếc
tàu bằng vàng mà không phải là nói ngoa, v́
mỗi chiếc tàu chở hàng đống của
cải quư báu. Chỉ cần nêu một dẫn
chứng cũng đủ rơ. Chỉ riêng một
trong những chiếc tàu đó – tàu “Santa
Roza”, đă kéo theo nó xuống đáy biển
hàng đống vàng và các kho của quư khác
từ cung điện của Montezuma nổi
tiếng. Theo ước tính của các chuyên gia nước
ngoài, đại dương đă “giữ
hộ” con người nhiều vàng, bạc và
những của quư khác trị giá hàng trăm
tỷ đô la.
Bao thế kỷ nay, những món tiền khổng
lồ không thể tưởng tượng
nổi ấy đă kích động tâm trí
của những người đi t́m của
cải. Trong thời gian gần đây, các
cuộc truy t́m kho tàng dưới đáy biển
đă có quy mô to lớn. Ở nhiều nước
đă xuất bản những cuốn sách,
những tập bản đồ, alat, trong đó
chỉ dẫn toạ độ chính xác và
toạ độ giả định của
từng con tàu chứa đầy của quư
bị đắm. Mỗi năm, hàng trăm đoàn
thám hiểm xuất hành ra biển để t́m
kiếm vàng bạc. Thỉnh thoảng, vận may
cũng đến với những người ṃ
của dưới đáy biển, nhưng nỗi
thất vọng vẫn chờ đón họ
nhiều hơn. Tuy vậy, đại dương
vẫn tiếp tục vẫy gọi hàng ngàn người
đi t́m của báu.
Bởi v́ các cuộc t́m kiếm vàng dưới
đáy đại dương gắn liền
với vô vàn khó khăn, cho nên, những ư đồ
khám phá thứ kim loại quư này trên cạn bao
giờ cũng mang tính chất quần chúng hơn
nhiều. Khi ở một nơi nào đó trên
trái đất vừa mới t́m thấy một
nắm đất chứa vàng, th́ lập tức,
hàng ngàn hàng vạn người ùn ùn kéo đến
đó để t́m kiếm hạnh phúc, họ
bị lên “cơn sốt vàng” – một
chứng bệnh không hề được nói
đến trong các sách tra cứu y học, nhưng
lại được mô tả một cách
thần t́nh trong các truyện ngắn của Jac
Lonđon (Jack London) và của Bret – Harta (Bret –
Harte).
Chỉ vài gam cát chứa vàng mà người ta
quên hết tính người, con giết cha, anh em
giết nhau. Cảnh như thế đă diễn
ra hồi đầu thế kỷ XVIII, khi vừa
mới phát hiện ra những mỏ vàng ở
Braxin. Nó cũng diễn giữa thế kỷ trước,
khi từng đoàn người t́m vàng xô đẩy
nhau đến vùng California nóng bỏng, rồi
vài năm sau lại ùn ùn kéo nhau đến sa
mạc châu Uc. Cảnh như thế đă xảy
ra trong những năm 80 của thế kỷ XIX,
khi mà cặp mắt của bọn hám lợi
rực sáng bốc lên ánh điên dại mỗi
lần nghe nói đến Tranxvaan. Cảnh như
thế cũng đă diễn ra mấy chục năm
sau đó, khi mà xứ Clonđaic băng giá và
miền Alaxca tuyết phủ (mà trước kia
chính phủ Nga hoàng đă bán cho Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ với giá mấy đồng xu)
đă trở thành trung tâm của cơn sốt
này.
Hiện c̣n giữ được các bức
ảnh “những con rắn đen” rẽ
lối qua những đỉnh núi đầy băng
tuyết của vùng địa cực. Đó là
những chuỗi người vô tận, lếnh
thếch đeo túi hành lư trên vai hoặc kéo trên
xe trượt tuyết – niềm ước mơ
trở về nhà với những chiếc bị
đầy vàng đă lôi cuốn họ. Nhưng
tiếc thay đối với đa số
những người đi t́m vàng bằng, ước
mơ đó không mấy khi thực hiện
được.
Bộ sưu tập của nữ hoàng –
Chẳng thua kém ai – Xiutkin say mèm - Để thay
thế cái khay – Những kỷ lục từ
châu Úc – Bộ cà sa bằng đá của đức
Phật – Bí quyết tuyệt đối –
Những vi khuẩn ăn vàng – Các nhà “giả
kim thuật” của thế kỷ XX – Acsimet
vạch mặt bọn bịp bợm.
Trong thế kỷ vừa qua, các mỏ vàng đă
được phát hiện ở Xibia, trên bờ
sông Lêna. Nhưng lịch sử của vàng nước
Nga c̣n đi ngược về những thời
đại sớm hơn.
Ngay từ đầu thế kỷ XVII đă
xuất hiện những đồng tiền vàng
đầu tiên của nước Nga - đồng
mười côpech và đồng năm côpech do
Vasili Suixki phát hành.
Dưới thời nữ hoàng Elizaveta Petropna đă
xuất hiện đồng tiền vàng lớn,
trị giá 10 rúp. Để phù hợp với người
nắm quyền bính cao nhất nước Nga, người
ta đă gọi những đồng tiền này
là “hoàng kim”. Có lẽ Elizaveta Petropna là người
không thờ ơ với vàng: sau khi bà ta qua đời,
trong hoàng cung c̣n lại một di sản kếch
sù gồm vô số ḥm lớn ḥm nhỏ đầy
ắp tiền vàng.
Các viên đại thần đạo mạo cũng
cố gắng để không lạc hậu so
với bậc đế vương. Chẳng
hạn, năm 1711, công tước Gagarin đă
quyết định làm cho thiên hạ “lác
mắt” v́ sự giàu có của ḿnh nên đă
làm một cỗ xe lộng lẫy, đệm
nhồi bằng tơ nước ngoài. Ông ta ra
lệnh bọc bánh xe bằng bạc, đóng móng
cho tám con ngựa bằng vàng nguyên chất,
ngụ ư nói : thấy chưa ! ta cũng biết
ăn chơi đấy chứ.
Việc khai thác vàng ở nước Nga đă
bắt đầu từ giữa thế kỷ
XVIII sau khi người nông dân Erofei Markop phát
hiện được mỏ vàng đầu tiên
trên bờ sông Berezopka ở Uran vào năm 1745 trong
lúc đi t́m thạch anh cho tu viện Ba ngôi.
Xứ Uran đă trở thành cái nôi của công
nghiệp vàng nước Nga.
Cũng ở Uran đă t́m được khối
vàng tự sinh lớn nhất trong nước,
nặng 36 kilôgam. Một người thợ
của nhà máy Mias tên là Nikifor Xiutkin đă t́m
thấy nó ở lưu vực sông Mias vào năm
1842. Ngay sau đó, vật quư này đă được
đưa về Petecbua ; ở đây, nó đă
gây nên cảnh huyên náo khác thường. Khối
vàng tự sinh lớn nhất nước Nga, đâu
phải là chuyện thường! Viên giám thị
mỏ được thưởng huân chương
Xtanixlap, viên quản đốc xưởng
được hưởng phụ cấp một
năm. C̣n nhân vật chính của lễ mừng
th́ sao? Một tạp chí cũ đă viết
rằng, Xiutkin “uống rượu say mèm,
sọm hẳn người, bắt đầu
đi làm muộn, và cứ như thế cho đến
khi, theo lệnh của chủ mỏ, người
ta đuổi anh đi, mặt mày sưng húp, áo
quần rách bươm, tay chân bị trói chặt
và bị một trận đ̣n nhừ tử trước
mặt các nhân viên của mỏ tụ tập
lại khi nghe tiếng trống”.
Dưới thời Sa hoàng, điều kiện
làm việc tại các mỏ vàng vô cùng nặng
nhọc. Từ sáng sớm đến khuya,
những người phu mỏ vàng bị ruồi
muỗi ăn thịt, c̣ng lưng đăi hàng
tấn cát trên những cái máng rất thô sơ.
Không phải ngẫu nhiên mà lúc th́ nơi này, khi
th́ nơi khác, đă nổ ra những cuộc
đ́nh công. Trong số đó, vang dội nhất
là cuộc đ́nh công nổ ra năm 1912 tại
các mỏ sa khoáng dọc sông Lêna, từng đi
vào lịch sử của phong trào cách mạng Nga.
Sau cách mạng, kỹ thuật mới, trật
tự mới đă được đưa
đến các mỏ vàng. Từ một nghề
nửa thủ công, khai thác vàng đă trở
thành một trong những ngành công nghiệp
hiện đại nhất. Hiện nay chỉ có
thể nh́n thấy chiếc khay đăi vàng trong
các viện bảo tàng. Bây giờ, vàng được
khai thác bằng những tàu cuốc - đó là
những cỗ máy cao bằng cả toà nhà
bốn tầng, được trang bị các cơ
cấu tự động, các khí cụ điều
khiển từ xa, các bộ phận truyền h́nh
công nghiệp. Theo ước tính của các chuyên
gia kinh tế, một tàu cuốc cỡ lớn
chỉ cần vài người điều
khiển, có thể thay thế chân tay nặng
nhọc của mười hai ngàn người
đăi vàng.
Sau khi được tách khỏi đất đá,
những hạt vàng nhỏ li ti lại được
xử lư tiếp để biến thành những
thỏi vàng nhỏ. Song cũng hay gặp kim
loại này ở dạng các khối tự nhiên,
tức là những khối vàng tự sinh. Chúng ta
đă nói đến một khối như vậy
– khối vàng tự sinh lớn nhất nước
Nga. Các khối vàng tự sinh lớn nhất
thế giới đă được t́m thấy
ở châu Úc hồi thế kỷ trước. Năm
1869, đă diễn ra cuộc gặp gỡ với
“người khách lạ đáng mong” nặng 71
kilôgam. Ba năm sau đă t́m thấy “phiến
Honterman”; cùng với đất đá xen lẫn
th́ khối này nặng 285 kilôgam, trong đó, riêng
vàng nặng chừng 100 kilôgam. Những món quà
hiếm có này của thiên nhiên nay đều
không c̣n nữa: Cả hai khối vàng tự sinh
này đă bị nấu lại để đúc
thành thỏi.
Đôi khi vàng có ở những chỗ rất
bất ngờ. Gần Băng Cốc – thủ
đô Thái Lan, có một pho tượng phật
rất lớn mà không ai biết là nó đă
được chở đến đây từ bao
giờ. Nửa thế kỷ trước đây,
người ta đă quyết định xây
dựng một nhà máy cưa lớn ở chỗ
này, do đó, cần phải chuyển pho tượng
đi nơi khác. Khi nhấc pho tượng lên
khỏi bệ, mặc dầu đă dùng những
biện pháp rất thận trọng, pho tượng
Phật bán thân bằng đá vẫn bị
nứt, và tận trong kẽ nứt lộ ra cái
ǵ óng ánh. Những người chỉ đạo
công việc đă quyết định bóc lớp
vỏ ngoài bức tượng. Tức th́ trước
mắt những người có mặt lúc đó
hiện lên một ông phật bằng vàng nguyên
chất, nặng 5,5 tấn. Các chuyên gia đă xác
định rằng, pho tượng cổ ấy
không kém bảy trăm tuổi. Cơ lẽ, trong
những năm chiến tranh phong kiến giữa
các phe phái, để đề pḥng bất
trắc, những người chủ của pho tượng
Phật bằng vàng đă mặc cho ngài bộ
“cà sa” bằng đá, rồi một điều
ǵ đó đă cản trở họ cởi
bộ y phục ấy ra. Hiện nay, pho tượng
này đang được bảo tồn tại
Chùa Vàng nổi tiếng ở Băng Cốc.
Trong toàn bộ lịch sử của ḿnh, loài người
đă khai thác không quá 100 ngh́n tấn vàng. Như
vậy có nhiều không? Có lẽ không nhiều.
Để xác nhận điều này, xin đưa
ra một thí dụ trực quan: nếu lượng
vàng này được biểu thị bởi
một khối lập phương th́ mỗi
chiều của nó chỉ mới được
17 mét, mà theo ước tính của các nhà địa
chất th́ chỉ riêng trong vỏ trái đất
thôi, đă có đến 100 tỉ tấn vàng (!)
Trữ lượng kim loại này, mà trên thực
tế là không thể cạn kiệt, đă hoà
tan trong nước của các đại dương
và biển trên hành tinh của chúng ta. Các “kho
vàng” trong đại dương được
bổ xung thường xuyên : các con sông chảy
qua những vũng chứa vàng, xói rửa kim
loại này ra khỏi đất đá và mang ra
biển.
Những ư đồ lấy vàng từ nước
biển đă được thực thi nhiều
lần. Ngay sau chiến tranh thế giới thứ
nhất, nhà hoá học Đức Fritx Habe (Fritz
Haber) là một trong những người đầu
tiên làm công việc này với ư định gánh
đỡ cho Đức khoản tiền bồi thường
chiến tranh. Năm 1920, với khoản tiền
trợ cấp của ngân hàng và của pḥng
bảo chứng Franfuôt, một uỷ ban hoàn toàn
bí mật đă được thành lập ở
Đalem nhằm t́m cách lấy vàng từ nước
biển. Sau tám năm t́m ṭi liên tục, Habe đă
hoàn chỉnh những phương pháp phân tích
chính xác nhất cho phép phát hiện vàng khi hàm lượng
của nó chỉ bằng 0, 000 000 000 1 gam trong
một lít, và cả những phương pháp làm
cho hàm lượng nguyên tố này trong nước
tăng lên 10 ngàn lần. Tưởng như thành
công đến nơi rồi. Nhưng … (chính
tại thời điểm cuối cùng lại hay
xuất hiện cái “nhưng” bất ngờ
này), các phép phân tích được tiến hành
rất cẩn thận đă đính chính lại
rằng, hàm lượng vàng trong nước
biển ít hơn khoảng một ngàn lần so
với dự tính của Habe. Rơ là “một
tiền gà, ba tiền thóc”.
Với tŕnh độ kỹ thuật hiện
đại th́ vấn đề như vậy
không phải là không giải quyết được.
Hiện nay, nhiều hăng nước ngoài đang
tiến hành các cuộc nghiên cứu trong lĩnh
vực này, và ai biết được rằng,
có thể trong những năm sắp tới, đại
dương sẽ trở thành những mỏ vàng
vô tận.
C̣n một hướng nữa cũng rất đáng
chú ư mà các nhà bác học Pháp và Liên Xô đang
theo đuổi. Đây muốn nói đến các
quá tŕnh luyện kim vi sinh học. Cách đây chưa
lâu lắm, khoa học đă biết những vi
khuẩn “ăn vàng’. Một số biến
chủng của các loại nấm mốc dường
như có khả năng hút vàng khỏi dung
dịch rồi được bao phủ bởi
một lớp màng nhuốm vàng. Đem sấy khô
màng nấm và nung lên th́ thu được vàng,
nhưng thực ra, chỉ với một lượng
rất nhỏ bé. Phương pháp này vẫn chưa
ra khỏi bốn bức tường của pḥng
thí nghiệm, nhưng các nhà bác học tin
chắc rằng, hoàn toàn có thể sử dụng
được hoạt động sinh hoá mănh
liệt của nhiều vi khuẩn vào thực
tiễn để lấy vàng ra khỏi đất
đá.
Ngay nay, cũng có thể thu được vàng
từ các loại khác. Các bạn sẽ hỏi :
“ Xin lỗi, phải chăng ước mơ
ngàn năm của các nhà giả kim thuật đă
được thực hiện, và cuối cùng,
đă t́m ra được “ḥn đá mầu
nhiệm” rồi ư ?” Công việc ở đây
không phải là nhờ “ḥn đá mầu
nhiệm” mà môn vật lư hạt nhân đă thay
thế nó một cách có kết quả. Khi dùng nơtron
để bắn phá các nguyên tử iriđi,
platin, thuỷ ngân, tali trong các ḷ phản ứng
nguyên tử, các nhà bác học “khai thác”
được các đồng vị phóng xạ
của vàng. Có thể sử dụng các máy gia
tốc (loại máy gia tốc ṿng của máy gia
tốc tuyến tính) vào mục đích này. Ở
đây, điện trường và từ trường
được sử dụng để làm cho các
hạt tích điện đạt tốc độ
rất lớn.
Nói cho vui th́ chúng ta nhận thấy rằng, các
nhà vật lư học người Anh hiện nay có
lẽ đă nhiều lần vi phạm sắc
lệnh mà vua Henry IV đă kư từ đầu
thế kỷ XIV: “Bất cứ ai, dù đó là
người nào, đều không được
phép biến đổi các loại b́nh thường
thành vàng”. Sau đó mấy trăm năm, chưa
một ai có thể trở thành người vi
phạm luật đó mặc dù rất nhiều
người muốn làm được như
thế, và măi đến thế kỷ XX, sắc
luật của nhà vua mới bị các nhà bác
học “chà đạp”.
Thế là các bạn đă quen với lịch
sử của vàng và với việc khai thác vàng.
Nhưng, kim loại này là cái ǵ vậy ? Hiện
nay nó được sử dụng ra sao?
Vàng là một trong những kim loại nặng
nhất. Chính tính chất này đă giúp cho Acsimet
vạch trần tṛ bịp bợm của bọn
thợ kim hoàn trong hoàng cung của vua Hiero xứ
Siracusa khi chúng làm chiếc vương miện
bằng vàng theo yêu cầu của ông vua này. Nhà
vua đă yêu cầu nhà bác học cho biết rơ,
cái vương miện này có được làm
bằng vàng nguyên chất hay không, hay là một
phần vàng đă bị thay thế bởi kim
loại khác. Trong thời đại chúng ta, bài
toán này chỉ vừa tầm hiểu biết
của một em học sinh nhỏ. Nhưng ở
thế kỷ trước công nguyên, ngay cả
Acsimet vĩ đại cũng phải vắt óc
để t́m câu trả lời cho nhà vua. Nhà bác
học đă làm như sau: ông cân chiếc vương
miện, sau đó, d́m vào nước và xác định
thể tích của nó bị choán chỗ. Lấy
khối lượng của vương miện
chia cho thể tích, ông không thu được con
số 19,3 (ứng với mật độ của
vàng) mà được một số nhỏ hơn.
Điều đó có nghĩa là bọn thợ kim
hoàn đă “cuỗm” một phần vàng và thay
vào đó một thứ kim loại nhẹ hơn.
Ai là thằng ngốc? - Sự tinh khôn của người
thủ quỹ - Những tấm huy chương
trong nước cường toan - Bị cầm tù
chung thân - Vật t́m được trong kim tự
tháp Chephren - “Con dấu vàng” - Trên đáy Đại
Tây Dương - “Thuế” vũ trụ.
Vàng nguyên chất là một kim loại rất
mềm và rất dẻo. Có thể kéo một
mẩu nhỏ vàng bằng đầu que diêm thành
một sợi dây dài vài kilomet hoặc dát thành
một lá mỏng trong suốt hơi xanh có
diện tích chừng 50 mét vuông.
Nếu lấy móng tay vạch lên vàng nguyên
chất th́ sẽ c̣n lại dấu vết trên
đó. V́ vậy, trong nghề kim hoàn, người
ta thường pha thêm đồng, bạc, niken, cađimi,
palađi và các kim loại khác vào vàng để
làm cho nó bền hơn. C̣n trong các trường
hợp gia công vàng nguyên chất, một lượng
vàng khá lớn sẽ biến thành bụi.
Cuối thế kỷ trước, ở Mỹ
đă xảy ra một sự việc kỳ khôi.
Cách xưởng đúc tiền ở Philađenphia
không xa có một ngôi nhà thờ nhỏ cũ
kỹ. Một hôm, khi người ta chuẩn
bị sửa chữa lại nó th́ một người
trong thành phố đến yêu cầu bán cho anh ta
cái mái nhà rách nát vô dụng ấy với giá
khá đắt – những ba ngàn đô la ! Cả
xóm đạo kháo nhau rằng, anh này mất trí
rồi, nhưng khi mà tiền đă đến tay
mà không hứng lấy th́ cũng có lỗi. Hoá
ra các chức sắc nhà thờ mới là
những người ngốc. Anh chàng tinh khôn này
đă cạo sạch lớp bụi bẩn ở
mái nhà, rồi đốt nó – trong tro có
khoảng tám kilôgam vàng mà giá trị của nó vượt
xa số tiền mà anh ta đă bỏ ra để
trả cho xóm đạo. Th́ ra qua nhiều năm,
bụi vàng bay qua ống khói ḷ nung của xưởng
đúc tiền và lắng xuống mọi vật
xung quanh, nhưng nhiều nhất là trên mái nhà
thờ.
Một anh thủ quỹ của một ngân hàng
lớn ở châu Âu cũng tỏ ra không kém tinh
khôn. Sự việc được kể ở
đây đă xảy ra trước chiến tranh
thế giới thứ nhất, khi mà tiền vàng
c̣n lưu hành ở đa số các nước.
Mỗi ngày, hàng ngàn đồng tiền vàng
chảy vào các quầy thu tiền của các ngân
hàng; ở đó, chúng được đếm
lại, phân loại và niêm phong. Thông thường,
các công việc này được thực
hiện trên những chiếc bàn gỗ chuyên
dụng. Nhưng một hôm, trước khi
bắt đầu làm việc, một người
thủ quỹ đă trải lên bàn một
tấm nỉ mang từ nhà rồi bày tiền lên
đó để đếm. Người phụ
trách rất vui ḷng v́ tính cẩn thận như
vậy và trong thời gian dài đă lấy người
thủ quỹ này để nêu gương cho
những người khác. Mỗi buổi sáng, anh
ta nhẹ nhàng rút tấm nỉ của ḿnh từ
ngăn kéo ra và trải lên bàn và khi hết ngày
làm việc th́ gấp lại cẩn thận
cất vào ngăn bàn. Cứ đến chiều
thứ bảy, người thủ quỹ mang
miếng nỉ về nhà và sáng thứ hai lại
mang một miếng nỉ mới. Sự việc
cứ tiếp diễn như vậy cho đến
khi người giúp việc của nhà anh ta bép
xép kể rằng, cứ mỗi tối thứ
bảy, ông chủ của anh ta đặt
miếng nỉ lên chảo rồi đốt.
Bụi vàng bám vào các sợi nỉ bị nóng
chảy và biến thành hạt vàng nhỏ.
Tính bền vững hoá học rất cao là
một trong những tính chất quan trọng
nhất của vàng. Các axit và các chất kiềm
đều không tác động đến vàng.
Chỉ riêng nước cường toan (hỗn
hợp của axit nitric và axit clohiđric) đáng
sợ là có thể hoà tan vàng. Có một lần
Nin Bo – nhà vật lư học nổi tiếng người
Đan Mạch, người từng đoạt
giải thưởng Noben, đă sử dụng
tính chất này. Năm 1934, khi thoát khỏi tay
bọn Đức quốc xă, ông rời khỏi
Copenhagen. Nhưng trong tay ông c̣n hai huy chương
Noben – vàng của các bạn đồng
nghiệp là các nhà vật lư học chống phát
xít người Đức – Jeim Franc (James Franck)
và Macx fon Laue (Max Laue) (huy chương của
bản thân Bo th́ đă được đưa
ra khỏi Đan Mạch từ trước). Không
muốn liều mang các huy chương này theo
ḿnh, nhà bác học đă hoà tan chúng trong nước
cường toan và đặt cái chai không có ǵ
đáng chú ư này vào một xó trên sàn nhà, nơi
có nhiều chai lọ đựng các chất
lỏng khác nhau mà bụi bặm bám đầy.
Sau chiến tranh, khi trở về pḥng thí
nghiệm của ḿnh, trước tiên, Bo đă
t́m lại cái chai quư báu ấy. Theo yêu cầu
của Bo, những người cộng sự
của ông đă tách vàng ra khỏi dung dịch,
rồi làm lại hai tấm huy chương.
Vàng thường được gọi là “vua
của các kim loại”; nó được bao
bọc bằng vầng hào quang của niềm vinh
hạnh; người ta quư trọng nó, tôn sùng
nó. Tuy nhiên, số phận của nó chẳng có
ǵ đáng thèm khát, bởi v́ chẳng khác ǵ
một “người tù chung thân”. Thật
vậy, vừa được moi lên khỏi ḷng
đất, vàng rơi vào tay con người,
rồi con người lại đưa nó vào nơi
giam cầm – những chiếc tủ sắt kiên
cố, những hầm ngầm bọc sắt
hoặc bằng bê tông cốt sắt. Chẳng
hạn pháo đài Nox – nơi có các kho vàng
dự trữ của Mỹ, đằng sau
nhiều lớp dây thép gai mang ḍng điện
với điện áp năm ngàn vôn là những
thứ như thế. Các lối đến pháo
đài này từ xa được bảo vệ
bằng mười tháp canh có trang bị khí
cụ quan trắc vô tuyến điện tử
hiện đại nhất. Súng liên thanh và đại
bác cực nhanh túc trực trong các tháp canh sẵn
sàng tự động nhả đạn vào
mục tiêu. Pháo đài được ngăn
thành từng phần, có những khoang chứa
đầy nước. Chỉ trong vài phút,
tất cả các pḥng trong pháo đài có thể
tràn ngập trong khí độc thừa sức
tiêu diệt mọi sinh vật một cách nhanh
chóng. Chính giữa pháo đài, trong một
khối bê tông cốt sắt đặc biệt
được đóng kín mít bằng một cánh
cửa nặng hai chục tấn với những
ổ khoá tinh xảo cực kỳ, là nơi
cất dấu vàng của nước Mỹ.
Những con mắt điện tử không một
giây phút nào lơ đễnh. Máy bay lên thẳng
thường xuyên tuần tiễu trên pháo đài.
Không một tù nhân nào trên thế giới lại
bị canh giữ cẩn mật đến
thế.
Hiện nay, trong số lượng vàng đă khai
thác, chỉ một phần tương đối
ít được dùng để làm đồ kim
hoàn và làm răng giả. Một điều thú
vị là, vàng đă được dùng làm răng
giả từ thời thượng cổ. Hồi
đầu những năm 50, tại nơi mai táng
trong kim tự tháp của faraon Chephren của nước
Ai Cập cổ xưa, các nhà bác học đă
t́m được một xác ướp trong
miệng có ba chiếc răng được gia
cố bằng sợi dây vàng . Tuổi của
chúng tính ra là đă hơn bốn ngàn rưỡi
năm. Các nhà phẫu thuật cổ xưa đă
sử dụng đến vàng. Chẳng hạn,
trong các cuộc khai quật được
tiến hành ở Nam Mỹ, các nhà khảo cổ
học đă t́m thấy hộp xương
sọ của một thủ lĩnh người
Inka. Hộp sọ này đă khiến các nhà y
học phải chú ư, v́ lúc sinh thời, vị
“chủ nhân”đầy quyền thế của
chiếc xương sọ này đă trải qua
một cuộc mổ xẻ : trên xương
sọ hiện vẫn c̣n dấu vết của
việc khoan xương do những bàn tay thiện
nghệ tiến hành, ngoài ra, lỗ khoan c̣n
lại trên mô xương đă được
nhà phẫu thuật cổ xưa bịt lại
rất kỹ lưỡng bằng một mảnh
vàng mỏng.
Cách đây chưa lâu lắm, lượng vàng
dùng cho các nhu cầu kỹ thuật chỉ
nhiều hơn chút ít so với lượng vàng
dùng để làm răng giả. Trong những năm
gần đây, công nghiệp đă bắt đầu
quan tâm đến vàng nhiều hơn. Kỹ
thuật điện tử ngày càng “ngốn”
nhiều vàng để làm vật liệu cho các
tranzito và điôt. Từ các hợp kim của vàng
với platin, người ta làm ra các chi tiết
của thiết bị sản xuất sợi
tổng hợp, bởi v́ những điều
kiện sản xuất ở đây đ̣i
hỏi chúng phải có tính bền vững rất
cao đối với tác động của các
hoá chất.
Trong kỹ thuật chân không, người ta cũng
sử dụng vàng nguyên chất về mặt
kỹ thuật. Ở mức độ chân không
rất cao, vàng “bám chặt” với đồng
khi hai kim loại này tiếp xúc với nhau. Các
nguyên tử của kim loại này xâm nhập vào
kim loại kia, thêm vào đó, sự khuyếch tán
qua lại như vậy xảy ra ở nhiệt
độ thấp hơn nhiều so với
nhiệt độ nóng chảy của mỗi kim
loại hoặc bất cứ hợp kim nào
của chúng. Trong kỹ thuật, những mối
ghép nối khá bền tạo ra nhờ sự trao
đổi như vậy được gọi là
những “con dấu vàng”.
Từ vàng, người ta làm ra các ṿng chèn kín
và ṿng đệm cho các khâu quan trọng trong máy
gia tốc các hạt tích điện; các chỗ
giáp nối khác nhau trong các ống và trong
buồng máy gia tốc cũng được hàn
bằng vàng. Vàng bịt kín các lỗ thoát không
khí, v́ vậy mà giữ được độ
chân không cực kỳ cao trong các thiết bị
(với độ chân không nhỏ hơn áp
suất khí quyển hàng tỉ lần). Độ
chân không trong buồng gia tốc càng cao th́ các
hạt cơ bản “sống” trong đó càng
lâu.
Các kỹ sư từng đặt dây cáp điện
thoại qua Đại Tây Dương hồi
những năm 50 đă phải nhờ đến
sự giúp đỡ của vàng. Nếu như
các bức điện báo vẫn được
truyền giữa châu Mỹ và châu Âu từ hơn
một trăm năm nay, th́ các cuộc nói
chuyện bằng điện thoại qua Đại
Tây Dương vẫn là một niềm mơ
ước tưởng như không thể thực
hiện được. Khó khăn chủ yếu
là ḍng điện truyền theo dây cáp điện
thoại bị suy yếu rất nhanh. Làm thế
nào để khắc phục điều đó?
Muốn duy tŕ cường độ ḍng điện,
có thể đặt những thiết bị
khuyếch đại cách nhau một khoảng nào
đó trên suốt chiều dài dây cáp. Để
bảo vệ các thiết bị này khỏi tác
động phá huỷ của nước biển,
nhiều chi tiết của chúng đă được
mạ bằng vàng. Thế là giải quyết
được một vấn đề kỹ
thuật phức tạp, và năm 1956 đă
diễn ra cuộc nói chuyện đầu tiên
bằng điện thoại qua Đại Tây Dương
đầu tiên trong lịch sử.
Không c̣n phải nghi ngờ ǵ nữa, vàng c̣n góp
phần to lớn vào việc chinh phục không gian
vũ trụ. Đặc biệt, các vệ tinh
nhân tạo “Prospero” và “Ariel” dùng để
nghiên cứu tầng ion đều không phải
là những vệ tinh b́nh thường mà là
những vệ tinh “bằng vàng”; chúng
được mạ một lớp vàng rất
mỏng. Sở dĩ như vậy là v́ “vua
của các kim loại” bảo đảm sự
điều chỉnh nhiệt độ rất
tốt cho lớp bọc bên ngoài các vệ tinh,
v́ nó không bị oxi hoá, cho phép các ion và các
hạt tích điện khác đi qua dễ dàng,
nhờ vậy mà ngăn chặn được
sự tích tụ của chúng – một điều
có thể dẫn đến những sự
“trục trặc quá đáng” ngoài dự tính.
Gần 41 kilôgam vàng đă được dùng vào
việc chế tạo các chi tiết trên con tàu vũ
trụ “Columbia” của Mỹ.
Nhu cầu về vàng đối với công
nghiệp mỗi năm một tăng. Có lẽ,
sớm hay muộn th́ kim loại quư báu nhất
này sẽ từ giă các tủ sắt để
đi vào các nhà máy và các pḥng thí nghiệm,
những nơi mà lúc nào nó cũng có thể t́m
được những công việc thích thú hơn.
|