|
1- Mỹ
dùng vi khuẩn làm vũ khí chống xe tăng
|
Những vi khuẩn mới
có khả năng tự tạo ra
chất xúc tác hóa học, phá hủy
các chất liệu như nhựa
đường, xi măng, kim
loại... |
Tiến sĩ Jan van Aken, chuyên gia
hàng đầu về vũ khí sinh học,
tiết lộ rằng Mỹ hiện có hai
dự án phát triển bom vi khuẩn với
sức tàn phá khủng khiếp. Các vi
khuẩn chuyển gene này có thể
"gặm nhấm" và phá hủy nhà
cửa, xe tăng và máy bay.
Jan van Aken hiện làm việc
cho dự án "năng lượng mặt
trời" ở Hamburg (Đức). Trong
một bài phỏng vấn của SPIEGEL hôm
qua, ông cho biết: "Đó là hai dự án
của Pḥng thí nghiệm quân sự Mỹ,
nhằm sử dụng vi khuẩn chuyển
gene làm vũ khí sinh học. Những vi
khuẩn này có khả năng tự tạo
ra chất xúc tác hóa học, phá hủy các
chất liệu như nhựa đường,
xi măng, kim loại...". Loại vũ khí
mới có thể tấn công và phá hủy các
phương tiện pḥng thủ chiến lược
của đối phương như xe tăng,
máy bay. "Dự án này vi phạm luật
kiểm duyệt vũ khí sinh học của
Mỹ", van Aken nói.
Theo các chuyên gia, kỹ
thuật mới của Mỹ có tiềm năng
phát triển "không giới hạn", v́
các vi khuẩn có thể được
chuyển gene để phá huỷ bất
kỳ loại vật liệu nào.
"Những nhà nghiên cứu của Pḥng thí
nghiệm quân sự Mỹ đang cố ư
che giấu ư đồ của họ.
Bởi theo luật Mỹ, người nào
chế tạo vũ khí sinh học tấn công
có thể lĩnh án chung thân", van Aken nói.
Hiện nay dự án này vẫn
đang nằm ở giai đoạn phác
thảo. Ông van Aken nói: "Có lẽ các nhà
quân sự không cần để ư đến
luật. Bộ Quốc pḥng Mỹ sẽ
quyết định cho phép dự án
được thực thi hay không. Tuy nhiên,
nếu nó thành hiện thực, họ
sẽ bị kiện ngay".
Minh Hy
(theo dpa, 13/5/2002)
|
|
2- Dùng
virus chuyển gene sản xuất chất bán
dẫn
|
Các sợi peptide phóng to. |
"Thiên nhiên đă tạo ra
những chất liệu tuyệt vời cho
ngành kỹ nghệ như xương và
ngọc trai. Và nay, nó c̣n đi một bước
xa hơn là tạo ra vật liệu cho ngành
điện tử bán dẫn", Tiến sĩ
Angela Belcher, Đại học Texas ở
Austin (Mỹ), thông báo về thành tựu
mới của virus chuyển gene.
Nhóm của Belcher trước
đó đă thấy rằng ở
một số virus, có tập trung các peptide
(tức là các chuỗi axit amino) ở
một đầu, và các peptide này có
thể tác dụng với một
số nguyên tố hóa học nhất định.
Trong 100 triệu loại virus, các nhà khoa
học đă phân tích ADN của một
số con có đuôi peptide dài nhất.
Sau đó người ta dùng
kỹ thuật chuyển gene để
tạo ra các virus có đuôi peptide dài
hơn hẳn, rồi nhân bản để
nuôi rộng răi.
Khi chế tạo ra một
mạng lưới nano bán dẫn từ
virus, các nhà khoa học đă t́m ra một
loại virus mà đuôi peptide của nó
phản ứng nhạy bén với sulfid
thiếc. Khi cho virus vào dung dịch sulfid
thiếc, th́ đuôi peptide của virus và
sulfid thiếc phản ứng với nhau,
tại thành một mạng tinh thể
với các mắt cách nhau 0,072 milimét.
Mạng tinh thể này có dạng phim
mỏng, dài cỡ vài centimét, thu giữ
và giải phóng được các điện
tử dưới tác dụng của ḍng
điện. V́ thế, người ta có
thể dùng các tấm phim mỏng này làm
vật liệu bán dẫn tinh xảo.
Minh Hy
(theo dpa, 3/5/2002)
|
|
3- Kỹ
thuật gene kéo dài tuổi thọ ruồi
giấm
|
Đầu một con ruồi
giấm. |
Đến nay, giấc mộng kéo dài
tuổi thọ của loài người vẫn chưa
thành hiện thực. Nhưng ít ra, với
ruồi giấm, các nhà khoa học đă gặt hái
được một thành tựu vượt
bậc. Bằng cách tác động vào một gene
chịu trách nhiệm về tiêu hóa của
ruồi, họ đă nâng tuổi thọ của nó
lên gấp đôi.
Nhóm nghiên cứu của Felix Knauf,
Trung tâm Max-Delbrück ở Berlin (Đức), và các
cộng sự Mỹ tại Đại học
Connecticut đă phát hiện ra một gene chi
phối cách hấp thụ thức ăn của
ruồi giấm. Họ đặt cho gene này
một cái tên khôi hài: Indy - viết tắt
của câu tiếng Anh I'm not dead yet (ta c̣n
chưa chết).
Gene Indy có tác dụng tạo ra
một loại protein, chi phối quá tŕnh trao đổi
chất của ruồi giấm. Trong một thí
nghiệm, các nhà khoa học đă làm biến
đổi gene Indy theo hướng "hạn
chế cường độ và kéo dài thời
gian trao đổi chất" trong quá tŕnh
hấp thụ thức ăn của ruồi.
Sự thay đổi này có tác dụng như
một kiểu "ăn kiêng", giúp ruồi luôn
giữ được mức trao đổi năng
lượng b́nh thường, ngay cả lúc nó
ăn quá nhiều hoặc quá ít. Đây có lẽ
là nguyên nhân khiến ruồi duy tŕ một đời
sống đều đặn và bền vững hơn.
Những thử nghiệm ban đầu
cho thấy, những con ruồi biến đổi
gene Indy đă sống được 10 tuần,
trong khi đồng loại b́nh thường
của chúng chỉ có tuổi thọ khoảng 5
tuần.
Minh Hy (theo dpa,
31/10/2002)
|
4- Chữa
động kinh bằng tế bào chuyển gene
|
Chuột được
cấy tế bào chuyển gene giảm
hẳn các cơn động kinh.
|
Bác sĩ người Mỹ
Alexander Huber đă thành công trong việc ghép
trực tiếp vào năo chuột một
loại tế bào chuyển gene để
điều trị bệnh động kinh.
Khi bị ḍng điện kích thích, tế bào
này sẽ sản sinh ra adenosin, làm giảm
hoạt động của hệ thần
kinh và hệ tim mạch.
Để tránh hiện tượng
đào thải do hệ miễn dịch
ở chuột, các nhà khoa học đă
tạo cho những tế bào này một
lớp vỏ bọc giống như
những viên nang trước khi đưa chúng
vào môi trường chứa đầy
chất lỏng trong năo. Chỉ sau 5 ngày,
những chú chuột thực nghiệm đă
giảm hẳn các cơn động kinh khi
bị điện kích thích.
(Theo Khoa Học
& Đời Sống, 25/6/2001)
|
|
5- Hai
căn bệnh Parkinson và Alzheimer có liên quan với
nhau
Các nhà khoa học thuộc Đại
học California (Mỹ) đă kết
luận như vậy sau khi thử nghiệm
trên những con chuột chuyển gene.
Họ cho biết, ở những cơ
thể có cả hai loại protein gây ra hai căn
bệnh này, sự phát bệnh sẽ
xảy ra nhanh hơn rất nhiều so
với những cơ thể chỉ mắc
một bệnh.
Những con chuột thí
nghiệm được phân thành 3 nhóm. Nhóm
1 sản sinh ra protein alpha synucleine gây
ra bệnh Parkinson, nhóm 2 sản sinh ra protein beta
amyloide gây bệnh Alzheimer và nhóm 3
tạo ra cả 2 protein. Kết quả cho
thấy, những con chuột ở nhóm 3 phát
bệnh nhanh hơn rất nhiều so với
nhóm 1 và 2.
Các nhà khoa học hy vọng
rằng việc ức chế 2 loại
protein này có thể làm giảm quá tŕnh phát
triển của 2 căn bệnh Parkinson và
Alzheimer.
Khoa học &
Đời sống
|
|
6- Làm
tăng trí nhớ của ruồi giấm
|
Năo bộ ruồi
giấm. Ảnh chụp trong Pḥng
thí nghiệm Cold Spring Harbor. |
B́nh thường ruồi
giấm có thể quên các sự
kiện xảy ra vài ngày trước
đó. Tuy nhiên, các nhà khoa học
thần kinh Mỹ mới t́m ra cách
chuyển gene để tăng khả năng nhớ
của ruồi lên nhiều lần. Thành
tựu này có thể mở ra hướng
điều trị mới cho những người
mắc bệnh suy giảm trí nhớ.
Nhóm khoa học của Jerry
Yin, Pḥng thí nghiệm Cold Spring Harbor
ở New York (Mỹ), đă nghiên
cứu các khớp thần kinh (synapse)
trong năo bộ của ruồi giấm.
Theo quan điểm khoa học
hiện nay, khi năo bộ ghi nhớ
một kiến thức hay một sự
kiện nào đó, các khớp thần
kinh sẽ nối các nơron lại,
tạo thành một cấu trúc mới
trong vỏ năo bộ. Một trong
những protein quan trọng tham gia vào quá
tŕnh này là protein PKM.
Trong một thí nghiệm, các
nhà khoa học đă tập cho những
con ruồi giấm cách tránh một
vật nhất định: Khi đậu
vào một quả cầu màu vàng là ngay
lập tức, ruồi bị sốc
điện giật nhẹ một
cái, v́ thế cứ nh́n thấy
quả cầu vàng là chúng không dám
đậu nữa. Quan sát cho thấy,
ruồi giấm chỉ nhớ được
bài học này một ngày, hoặc lâu
nhất là một tuần. Sau đó, chúng
lại quên, và cứ đậu vào
quả cầu vàng để bị
điện giật.
Bằng kỹ thuật
chuyển gene, nhóm khoa học của Yin
đă tạo ra những con ruồi
giấm có tỷ lệ protein PKM cao hơn
b́nh thường. Kết quả là chúng
có thể nhớ quả cầu vàng
đến 20 ngày. Rơ ràng PKM đă
giúp ruồi nhớ dai hơn hẳn.
Quá tŕnh ghi nhớ thông tin
ở năo bộ người về cơ
bản cũng giống như ở
ruồi giấm, v́ thế các nhà khoa
học hy vọng có thể t́m ra phương
pháp chữa bệnh suy giảm trí
nhớ ở một số người.
Tuy nhiên, theo ông Yin, người ta c̣n
phải t́m hiểu kỹ hơn về
những tác dụng phụ có thể có
khi thay đổi tỷ lệ PKM ở
các động vật khác.
Minh Hy
(theo SPIEGEL)
|
|
7-
Tằm biến đổi gene tạo ra
protein người
|
Trên thế giới,
tằm tạo khoảng 60.000
tấn tơ mỗi năm. |
Các nhà khoa học Nhật
Bản vừa biến đổi thành công
gene của một loại tằm,
khiến chúng nhả tơ cùng với
collagen - một loại protein liên
kết ở da người, thường
dùng trong phẫu thuật thẩm mỹ
và tạo h́nh. Thành tựu này mở
đường cho việc sản
xuất các loại protein hữu ích trên
quy mô lớn.
Nghiên cứu do Katsutoshi
Yoshizato và cộng sự ở Đại
học Hiroshima (Nhật Bản) thực
hiện. Các nhà khoa học đă
cấy một gene sản xuất collagen
vào cơ thể những con tằm. Gene
này được điều khiển
“bật tắt” bởi một protein
khác nằm trong tuyến tơ. Nhóm nghiên
cứu phát hiện thấy, khi tằm
nhả tơ và quấn kén, chúng đồng
thời tiết ra collagen (chiếm đến
10% khối lượng protein trong kén).
Collagen là một lại protein liên
kết, có nhiều ứng dụng y
học khác nhau, như sản xuất da
nhân tạo hay vá lành các vết thương.
Yoshizato cho biết, v́ tơ
có thành phần là các protein thiên nhiên,
nên việc tách collagen ra khỏi nó
rất dễ dàng. Đầu tiên, người
ta cũng nhúng kén trong nước nóng
để làm chết nhộng ở bên
trong, và để sợi tơ không
bị hỏng. Sau đó, collagen
được tách ra bằng phương
pháp hóa hóa học.
Hiện tại, nhiều nhóm
nghiên cứu đă thành công trong
việc biến đổi gene của
động vật để sữa
của chúng có chứa các protein
chữa bệnh, hay buộc thực
vật sản xuất ra protein trong
củ, quả... Tuy nhiên, tằm là
loại côn trùng rẻ, dễ nuôi và
mau chóng cho sản phẩm hơn. Trên
thế giới, sản xuất tơ
tằm cũng là ngành công nghiệp chính
ở nhiều nước, và mỗi năm,
chúng tạo ra khoảng 60.000 tấn tơ.
V́ thế, các nhà khoa học hy vọng
nghề nuôi tằm sẽ đem lại
lượng collagen không nhỏ, phục
vụ chữa bệnh cho người.
Tuy nhiên, Julian Marr, một
chuyên gia trong việc sử dụng
thực vật chuyển gene để
tạo ra các protein hữu ích tại
Bệnh viện Guy and St Thomas ở London
(Anh), lại không mấy tin tưởng
vào ư nghĩa của công tŕnh này. Theo
ông, tằm tạo ra protein với
sản lượng rất thấp, và
phải cần không biết bao nhiêu con
mới tạo ra đủ collagen
chữa lành một vết thương
hay một chỗ cấy ghép.
B.H.
(theo NewSci, Nature16/12/2002)
|
|
8-
Lúa chuyển gene mới sống
được ở mọi vùng đất
|
Lúa chuyển gene (trái)
và lúa b́nh thường (phải)
được trồng ở trong
cùng môi trường chua mặn. |
Các nhà nghiên cứu Mỹ và
Hàn Quốc vừa giới thiệu
một loại lúa được
cấy gene của vi khuẩn E.coli. Nó có
thể sinh sống ở những điều
kiện môi trường khắc
nghiệt nhất: chua, mặn, khô
hạn. Ngoài ra, loại lúa chuyển
gene này cũng mẩy và chắc hơn
b́nh thường.
Nhóm nghiên cứu của
Ajay Garg (Mỹ) và Ray Wu (Hàn Quốc)
đă cấy một gene của vi
khuẩn E.coli vào ADN của lúa. Gene này
có tên là trehalose, chuyên phụ trách
về việc sản sinh đường
cho vi khuẩn. Theo các nhà nghiên cứu,
trehalose c̣n có tác dụng hỗ trợ
việc tạo ra các phân tử sinh
học khác, như lipid, enzyme hoặc
protein.
Người ta t́m thấy
gene trehalose ở nhiều loài thực
vật và động vật, nhưng
lại không thấy nó trong ADN của lúa.
V́ thế, khi được cấy gene
này, lúa đă có phản ứng rất
tốt, và phát triển b́nh thường
ở các môi trường bất
lợi.
Theo các nhà khoa học,
việc cấy gene của vi khuẩn vào
lúa không hề ảnh hưởng
tới chất lượng hạt
gạo, v́ gene này chỉ có tác dụng
chủ yếu ở các bộ phận
khác của cây, như rễ hoặc lá.
Thậm chí gene ngoại lai c̣n làm cho
hạt lúa chắc và mẩy hơn.
Minh Hy
(theo BBC, dpa- 26/11/2002)
|
Thứ hai, , 09:12 (GMT+7) |
9-
Thực vật chuyển gene hấp
thụ thạch tín từ đất
|
Hoa mù tạt. |
Các nhà khoa học Mỹ
mới t́m ra cách chuyển gene một
loại cây mù tạt để nó
hấp thụ thạch tín (asen) trong ḷng
đất. Nó cũng "tiêu hóa"
được các chất độc
hại khác như hợp chất ch́,
rồi chứa ở rễ và lá.
Nhờ đó, chất độc
được hóa giải, chuyển thành
chất hữu cơ có lợi cho đất.
Nhóm nghiên cứu của
Richad Meagher đă cấy 2 gene của vi
khuẩn E.coli vào ADN của cây mù
tạt. Một trong hai gene này có tác
dụng chuyển thạch tín từ
rễ lên lá. Gene thứ hai ngăn
cản cây bị nhiễm độc,
bằng cách kết hợp các thành
phần của asen với lưu
huỳnh, tạo ra chất không độc
hại.
Với loại thực
vật chuyển gene này, các nhà khoa
học hy vọng giải quyết
được vấn đề
nhiễm
độc thạch tín ở
nhiều nước nông nghiệp. Theo
ước tính của Tổ chức Y
học thế giới (WHO) th́ ở
Ấn Độ và Bangladesh,
nguồn nước uống cho 112
triệu dân có nồng độ
thạch tín vượt mức cho phép.
Thạch tín là tên gọi
thông thường chỉ nguyên tố
asen, nhưng cũng đồng thời
dùng chỉ hợp chất ôxit của
asen hóa trị III (As2O3). Ôxit này màu
trắng, dạng bột, tan được
trong nước, độc gấp 4
lần thủy ngân. Khi uống phải
một lượng thạch tín bằng
nửa hạt ngô, người ta có
thể chết ngay tức khắc. Asen là
thành phần tự nhiên của vỏ
trái đất, có mật độ
khoảng 1 đến 2 mg asen/kg đất.
Asen tác động xấu
đến hệ tuần hoàn, hệ
thần kinh. Nếu bị nhiễm độc
asen một cách từ từ, mỗi ngày
một ít, tùy theo mức độ
bị nhiễm và thể trạng
mỗi người, có thể xuất
hiện nhiều triệu chứng như:
rụng tóc, buồn nôn, sút cân, ung thư,
giảm trí nhớ... Asen làm thay đổi
cân bằng hệ thống enzyme của
cơ thể, nên tác hại của nó
đối với phụ nữ và
trẻ em là lớn nhất.
Nghiên cứu đuợc
đăng trên tạp chí Nature
Biotechnology.
Minh Hy
(theo dpa, 7/10/2002)
|
10-
Nguy cơ nhiễm thạch tín trên cả nước
Qua một cuộc điều tra,
các nhà khoa học phát hiện không chỉ
ở đồng bằng sông Hồng, đồng
bằng sông Cửu Long, không chỉ miền
xuôi mà cả miền núi, không chỉ nước
giếng khoan mà cả nước suối, nước
mỏ, nước từ các khe đá đều
có nguy cơ nhiễm thạch tín.
Theo từ điển Bách khoa dược
học xuất bản năm 1999, thạch tín
là tên gọi thông dùng chỉ nguyên tố
Asen, nhưng cũng đồng thời dùng
chỉ hợp chất ôxit của Asen hóa
trị III (As2O3). Ôxit này màu trắng, dạng
bột, tan được trong nước,
rất độc. Khi uống phải một
lượng thạch tín bằng nửa
hạt bắp, người ta có thể
chết ngay tức khắc. Asen là thành
phần tự nhiên của vỏ trái đất,
khoảng 1 đến 2 mg Asen/kg, là một
chất rất độc, độc gấp
4 lần thủy ngân. Asen tác động
xấu đến hệ tuần hoàn, hệ
thần kinh. Nếu bị nhiễm độc
Asen một cách từ từ, mỗi ngày
một ít, tùy theo mức độ bị
nhiễm và thể trạng mỗi người,
có thể xuất hiện nhiều bệnh như:
rụng tóc, buồn nôn, sút cân, ung thư,
giảm trí nhớ... Asen làm thay đổi cân
bằng hệ thống enzim của cơ
thể, nên tác hại của nó đối
với phụ nữ và trẻ em là lớn
nhất.
Theo GS - TS Đào Ngọc Phong
(Viện Địa chất và Khoáng sản),
khi điều tra về nhiễm độc
Asen ở vùng thượng nguồn sông Mă, nhóm
nghiên cứu đă phát hiện thấy
những người bị nhiễm độc
Asen măn tính ở đây có 31 triệu
chứng lâm sàng liên quan đến Asen. Điều
nguy hiểm là Asen không gây mùi khó chịu khi
có mặt trong nước, ngay cả khi ở
hàm lượng có thể gây chết người,
nên không thể phát hiện bằng cảm
quan. Bởi vậy, các nhà khoa học gọi
Asen là “sát thủ vô h́nh”.
Đầu tháng 7/2000, ông David G.
Kinniburgh, chuyên gia địa hóa người
Anh, cùng các thành viên của UNICEF và các nhà
khoa học Việt Nam đă điều tra t́nh
trạng nhiễm độc Asen ở nước
ta. Họ kết luận Asen có trong tất
cả đất, đá, các trầm tích
được h́nh thành từ ngh́n năm trước,
với nồng độ khác nhau. Trong
những điều kiện nhất định,
nó có thể tan vào trong nước, điều
này xảy ra ở các châu thổ rộng
lớn, ở chỗ trũng trong nội địa,
gần các mỏ... V́ vậy, mọi nơi
trên lănh thổ Việt Nam đều có nguy cơ
nhiễm Asen bất cứ lúc nào.
Làm thế nào để
hạn chế tác hại của Asen?
Các nhà khoa học thuộc
Viện Hóa học công nghiệp đă nghiên
cứu và sản xuất thành công bộ
lọc Asen. Tuy nhiên cũng có những phương
pháp không cần đến thiết bị
lọc mà các hộ gia đ́nh có thể
tự làm được.
- Ở các giếng chứa
nhiều sắt th́ bố trí lại cơ
cấu lọc hợp lư để kết
hợp loại sắt đồng thời
loại Asen. Khi sắt kết tủa dạng
Fe(OH)3 sẽ có khả năng hấp thụ
kết tủa chứa Asen dưới dạng
FeAsO4. Cần có kết cấu loại sắt
hợp lư để tận dụng tối
ưu khả năng này.
- Ở hộ gia đ́nh dùng bơm
điện: Làm giàn mưa bằng ống
nhựa, đường kính 27 mm, khoan 150-200
lỗ, mỗi lỗ có đường kính
từ 1,5 đến 2 mm, tùy theo công suất máy
bơm đang sử dụng. Dưới cùng
bể lọc là lớp sỏi đỡ dày
khoảng 1 gang, trên lớp sỏi đỡ là
lớp cát dày khoảng 2,5-3 gang. Chú ư không dùng
đệm mút, loại đệm lót giường
hoặc than củi. Các vật liệu này
dễ sinh phản ứng phụ, sau một
thời gian sử dụng, chúng có thể làm
tăng nồng độ nitric trong nước.
- Ở hộ gia đ́nh dùng bơm
tay: Cho nước từ ṿi bơm rót vào máng
mưa. Máng mưa cần có nhiều lỗ
nhỏ để không khí dễ tan vào nước,
phát huy hiệu quả ôxy hóa của ôxy có
sẵn trong không khí.
- Bể lọc 3 ngăn: Các gia
đ́nh nên xây bể lọc nước 3 ngăn
khử Asen một cách hữu hiệu
nhất. Ngăn đầu dùng lọc
cặn, nước thô chảy từ dưới
lên, có đường xả cặn ở
đáy. Ngăn thứ hai dùng lọc tinh, nước
chảy từ trên xuống. Ngăn thứ ba
dùng chứa nước sạch. Kích thước
tối ưu lọc phụ thuộc vào công
suất, lưu lượng từng giếng.
Thạch tín (Asen) nguy hiểm nhưng không
đáng sợ nếu chúng ta hiểu và
biết khống chế chúng. Bằng
những biện pháp đơn giản, ít
tốn kém và lại rất hiệu quả trên,
mong rằng Asen không c̣n là “sát thủ vô h́nh”
như chúng ta vẫn thường nghĩ.
(Theo SGGP)
11-
Nước giếng khoan đang đầu
độc người dân Bangladesh
|
Tổn thương ở chân
và tay do nhiễm độc thạch tín. |
Tại một làng quê vùng
Minapu, cô P. Bengum, 25 tuổi, biết rằng ḿnh
đang chết dần. Cũng như nhiều
dân làng khác, cơ thể cô mục
ruỗng, da dẻ bục vỡ, chân tay ung
nhọt. Không chỉ ở Minapua, các vùng khác
của Bangladesh cũng ch́m đắm trong cái
mà nhiều chuyên gia gọi là "vụ
ngộ độc tập thể lớn
nhất trong lịch sử" do nước
giếng khoan gây ra...
Đó là một đoạn trong
bản tường tŕnh đặc biệt
của Bary Brearak đăng trên tờ New York
Times. Từ vài năm qua, Chính phủ Bangladesh
và Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc
(UNICEF) thừa nhận nước giếng
khoan đă gây ngộ độc cho hàng
chục triệu người do nhiễm
thạch tín. Tuy nhiên, thế giới chỉ
biết đến sự thật đó sau
khi bài báo này được đăng
tải. Sau đây là nội dung chính
của bài báo:
"Người ta phát hiện
ra chất thạch tín với nồng
độ nguy hiểm đang xâm nhập cơ
thể hàng triệu người qua từng
ngụm nước được bơm
lên từ mạng lưới giếng khoan
trong cả nước. Phần lớn các
giếng này đă được sử
dụng 10-20 năm nay, một khoảng
thời gian đủ để thạch tín gây
ung thư và dẫn đến chết người.
Theo tiêu chuẩn an toàn của Tổ chức
Y tế Thế giới (WHO), nồng độ
thạch tín trong nước sinh hoạt không
được quá 0,01 mg/l. Nhưng ở
một số nước, trong đó có
Bangladesh và Ấn Độ, người ta
chấp nhận nồng độ thạch tín
cao gấp 5 lần con số nói trên".
Theo tiến sĩ Allan Smith, nhà
vệ sinh dịch tễ học Mỹ, người
được WHO cử sang điều
tra về việc này, con số người
chết v́ nước giếng khoan ở
Bangladesh có thể đă lên đến hàng
trăm ngh́n. Babar Kabir, chuyên gia thủy văn
của Ngân hàng Thế giới, cho rằng,
có ít nhất 18 triệu người đang tự
đầu độc ḿnh v́ sử dụng nước
giếng bơm tại Bangladesh. C̣n theo ước
tính của nhà hóa học Dipankar Chakraborti,
khoảng 6 triệu người ở Tây
Bengal đang uống nước nhiễm
độc và 300.000 người đă có
triệu chứng ngộ độc.
Điều nguy hiểm là
hầu hết người dân không hiểu ǵ
về thạch tín. Họ tin rằng,
nếu giếng bị nhiễm độc th́
đó là do lúc khoan lắp, người ta đă
vô ư giết chết một con rắn,
hoặc đơn giản là do ư của Thánh
Allah. Rất nhiều gia đ́nh vẫn
uống nước nhiễm độc
chỉ v́ không muốn hạ ḿnh đi xin nước
giếng nhà người khác. Sẽ phải mất
nhiều thời gian để thuyết
phục người dân thôi dùng nước
giếng nhiễm độc, cũng như trước đây người
ta phải rất vất vả mới khuyên được
họ dùng nước giếng khoan thay cho nước
ao.
Theo Dipankar Chakraborti, các khoáng
thạch chứa thạch tín trong trầm tích
dăy Himalaya đă trôi theo hệ thống sông
Hằng xuống dưới thấp. Việc
dùng rộng răi các giếng bơm khiến
cho mặt nước ngầm bị tụt
thấp. Ôxy lấp đầy chỗ
trống, gây ra một phản ứng hóa học
tách thạch tín khỏi các khoáng chất và
biến nó thành dung dịch.
Một số nhà khoa học
khác lại cho rằng mặt nước
ngầm tụt thấp không có vai tṛ ǵ đối
với t́nh trạng nước nhiễm độc.
Theo họ, thạch tín có sẵn trong nước
một cách tự nhiên. Nó được vi
khuẩn giải phóng từ các khoáng
thạch trầm tích.
Các chuyên gia đă đề nghị
nhiều biện pháp khắc phục t́nh
trạng này như sử dụng màng lọc,
dùng nước mưa. Một số
biện pháp đơn giản hơn như dùng
clo hoặc đun sôi nước giếng
đă thất bại. Clo nếu dùng quá
liều sẽ c̣n nguy hiểm hơn cả
thạch tín; c̣n đun sôi nước th́
rất ít nông dân có tiền mua củi
hoặc dầu.
Chính phủ Bangladesh đă có
một ủy ban theo dơi vấn đề
thạch tín từ năm 1993 và cũng đă
tiến hành xét nghiệm nước
giếng. Tuy nhiên, chưa có hành động
cụ thể nào khác được thực
hiện.
Lao Động
|
12-
Cây thuốc lá chuyển gene làm sạch
đất nhiễm độc
|
Một cánh đồng
thuốc lá ở Guatemala.
|
Bằng cách cấy gene
của vi khuẩn enterobacter cloacae
vào cây thuốc lá, các nhà khoa học
Anh đă giúp cây tiết ra một
loại enzyme, có thể hấp thụ và
chuyển đổi các phân tử
thuốc nổ TNT trong đất thành
chất không độc hại.
Chất nổ TNT không
những có sức công phá mạnh mà c̣n
khiến đất bị nhiễm độc,
gây nguy hiểm cho động vật và
cây trồng. Đến nay, người
ta vẫn chưa t́m ra cách tự nhiên và
rẻ tiền để làm sạch các
vùng đất đó. Trong hoàn cảnh
này, trồng cây thuốc lá chuyển
gene sẽ là giải pháp kỳ
diệu, v́ nông dân vừa có thu
hoạch, vừa cải tạo
được đất.
Nhóm khoa học của Neil
Bruce, Đại học Cambridge (Anh),
đă trồng cây thuốc lá chuyển
gene trong một dung dịch có nồng
độ TNT rất cao (các cây trồng
khác sẽ chết sau vài ngày). Sau
khoảng hai tuần, nhóm khoa học
thấy rằng nồng độ TNT
giảm đi một nửa. Quá tŕnh này
xảy ra do gene của vi khuẩn
được cấy vào đă sản
sinh ra một loại enzym ở rễ cây,
hấp thụ và chuyển đổi
TNT qua một chuỗi các phản
ứng hóa học. Trong thời gian này,
cây thuốc lá vẫn phát triển b́nh
thường.
Theo nhóm khoa học, bên
cạnh cây thuốc lá, người ta cũng
có thể biến đổi gene của
một số cây to và lớn nhanh khác,
ví dụ cây dương, để làm
sạch đất. Bruce hy vọng,
sắp tới phương pháp của
nhóm sẽ được thử
nghiệm trên một số cánh đồng
nhiễm độc TNT ở Guatemala.
Minh Hy
(theo SPIEGEL,3/12/2001)
|
|
|
13-
Loại bỏ gene gây chảy nước
mắt ở hành
|
Công nghệ chuyển
gene có thể tạo ra những
loại hành không cay. |
Các nhà khoa học Nhật
Bản vừa cho biết, họ có
thể tạo ra một loại hành
chuyển gene mới, thơm ngon không kém
hành truyền thống, nhưng sẽ không
khiến bạn phải ứa nước
mắt v́ cay mỗi khi thái.
Từ lâu, người ta
vẫn cho rằng chất cay trong hành là
sản phẩm phụ của một quá
tŕnh sinh hóa, nhằm tạo ra các
hợp chất thơm đặc trưng
của chúng. Nhưng mới đây,
Shinsuke Imai và cộng sự, thuộc
Tập đoàn Thức ăn Gia đ́nh
ở Chiba, Nhật Bản, phát hiện
thấy chất cay này được
sinh ra bởi một enzyme hoàn toàn độc
lập với quá tŕnh tạo chất
thơm. V́ thế, Imai lập luận
rằng, nếu biến đổi gene
để hành không c̣n sản xuất
ra enzyme “khó chịu” trên, chúng ta
sẽ có được một loại
hành không gây kích thích mắt, mà
vẫn giữ nguyên được hương
vị ban đầu.
Cho đến lúc này, Imai và
cộng sự đă xác định
được gene tạo chất cay.
Họ cũng cho biết sẽ không khó
khăn ǵ để tạo ra những cây
hành thiếu hẳn loại gene đó.
Tuy nhiên, Imai cũng thừa nhận
việc loại bỏ enzyme trên sẽ kích
thích hành sản xuất chất
thiosulphinate (một chất cùng họ
với chất thơm) nhiều hơn,
làm át đi ít nhiều hương
vị đặc trưng của nó.
B.H.
(theo NewScientist, 17/10/2002)
|
|
14-
Mỹ cự nự EU về chuyện thực
phẩm biến đổi gene
|
Khẩu hiệu: "Người
châu Âu nói không với thực phẩm
chuyển gene". |
Washington vừa phàn nàn
về việc Liên minh châu Âu (EU) vẫn duy tŕ
lệnh cấm nhập khẩu loại
thực phẩm này từ hơn 5 năm qua.
Thậm chí, Mỹ cùng 20 quốc gia xuất
khẩu nông sản khác c̣n lớn tiếng yêu
cầu, nếu không dỡ bỏ "rào
cản phí lư" đó, Brussel có thể
sẽ phải đối mặt với
sự trừng phạt của WTO.
Đây được
xem như một động thái mới
của Mỹ nhằm đáp trả lời
đe dọa trừng phạt thương
mại mà EU đưa ra tuần qua.
Đại diện thương
mại Mỹ Robert Zoellick cho rằng, Washington
chẳng c̣n kiên nhẫn sau quá nhiều năm
châu Âu nấn ná trong chuyện này. "EU
đă cố t́nh phớt lờ WTO và tự
tạo ra các rào cản thương mại
hết sức vô lư, gây trở ngại đến
việc áp dụng công nghệ vốn đang
mang lại lợi ích to lớn cho nông dân và
người tiêu dùng khắp nơi trên
thế giới", ông nói.
Phản ứng trước động
thái của Mỹ, Chủ tịch Ủy ban Thương
mại châu Âu Pascal Lamy phủ nhận sự
tồn tại của cái gọi là lệnh
cấm thực phẩm biến đổi
gene. Ông nhấn mạnh, hệ thống
luật pháp của EU về việc quản lư
loại thực phẩm này hoàn toàn phù
hợp với quy định của WTO.
Trong khi đó, giới tiêu dùng
châu Âu và nhóm Hành lang xanh đang phát
động chiến dịch phản đối
lời đe dọa của Mỹ. Họ cho
rằng, nếu WTO đứng về phía
Washington trong chuyện này th́ vô h́nh trung
sẽ tạo cơ hội cho Mỹ ồ
ạt tung thực phẩm biến đổi
gene vào thị trường châu Âu mà không thèm
để ư tới lợi ích của người
tiêu dùng.
Theo quy định
của WTO, hai bên sẽ có 60 ngày bàn bạc
trước khi đưa những tranh căi này
ra phán quyết tại ṭa. Trong trường
hợp EU bị xem là có những sai phạm,
Mỹ sẽ được quyền áp
dụng các biện pháp trả đũa
bằng thuế quan đối với hàng hóa
đến từ châu Âu.
Ông Zoellick cho hay, dù có
tốn tới hàng trăm ngh́n đôla,
Mỹ vẫn kiên quyết theo vụ này đến
cùng, bởi nếu không nó sẽ ảnh hưởng
nặng nề đối với ngành sản
xuất nông nghiệp trong nước.
Thanh Thủy
(theo BBC, 3/4/2003,)
|
|
|
|
|
15-
Cây làm thay nhiệm
vụ của đèn đường
|
Cơ chế phát sáng của
đom đóm có thể áp dụng lên
thực vật. |
Đèn đường thường tiêu
tốn rất nhiều năng lượng và
cần nhiều chi phí để bảo dưỡng.
Với kỹ thuật chuyển gene, người
ta có thể tạo ra cây phát sáng để chúng
có thể quang hợp vào ban ngày làm sạch không
khí, c̣n ban đêm th́ phát sáng như những cây
đèn đường.
Chúng ta biết có một số vi
khuẩn, côn trùng, động vật... có lớp
vỏ cứng có thể phát sáng, nổi bật là
loài đom đóm.
Cơ chế phát quang của đom đóm là do gen
quy định , như vậy, nếu đem gene
đó chuyển cho thực vật th́ có thể
khiến thực vật cũng phát sáng.
Làm thế nào để có thể
tạo ra loại cây phát sáng đó? Ở dưới
kính hiển vi, người ta dùng một bơm tiêm
rất nhỏ (có ống thuỷ tinh đường
kính chỉ vài micromet) trực tiếp đưa
phân tử ADN trong gene phát sáng của đom đóm
tiêm vào tế bào cây. Ngoài ra, họ c̣n có
thể dùng một đoạn ngắn ADN của
gene phát sáng, phủ hạt bột vàng hoặc
bột vonfram có độ dày 1-3 micromet, rồi dùng
súng đặc biệt bắn vào trong tế bào,
thực hiện chuyển hoá.
Hiện nay, Đại học Edington
(Anh) đă đưa gene phát sáng chuyển vào bông,
khoai tây... tạo ra các thực vật phát sáng.
Nhật Bản cũng đă tạo ra thuốc lá
có thể phát quang.
|
16-
Dùng sữa chuột chuyển gene chế tạo
vacxin pḥng sốt rét
|
Muỗi rừng có
thể reo rắc bệnh sốt rét
rất mạnh. |
Các nhà khoa học Mỹ đă cấy
một gene kích thích bệnh sốt rét vào ADN
của chuột, khiến tuyến vú của
chúng tiết ra một loại sữa chứa
protein gây bệnh. Từ protein này, người
ta chế ra một loại vacxin pḥng bệnh
sốt rét. Thử nghiệm cho thấy vacxin đă
tỏ ra hiệu quả trên khỉ.
Đến nay y học vẫn chưa
t́m ra loại vacxin pḥng sốt rét dạng tiêm. Ông
Anthony Stowers, tác giả dự án, nói: "Một
mặt, vacxin phải có hiệu quả chữa
bệnh, mặt khác giá thành của nó phải
rẻ để dân chúng ở những nước
nhiệt đới nghèo có thể mua được".
Stower hy vọng, tương lai sữa của
những con cừu chuyển gene có thể cung
cấp vacxin tiêm pḥng cho toàn bộ dân cư
châu Phi.
Theo thông báo của nhóm khoa học,
trong số 5 con khỉ được tiêm pḥng và
sau đó bị chích một liều thuốc gây
sốt rét nặng, có 4 con đă thoát
chết. Stower cho biết, đây là một
"kết quả đầy hứa hẹn",
nhưng c̣n phải cân nhắc kỹ trước
khi thử nghiệm loại vacxin này trên người, và
có lẽ phải vài năm nữa, vacxin pḥng
sốt rét dạng tiêm mới có mặt trên
thị trường.
Nếu thử nghiệm trên người
thành công, theo Stower, một con cừu chuyển
gene sẽ cung cấp đủ vacxin pḥng sốt rét
cho 8,4 triệu dân mỗi năm. Hiện công ty
Genzyme Transgenics của Mỹ nuôi hai con cừu
chuyển gene theo hợp đồng với Stower. Nhưng
v́ chúng c̣n quá nhỏ và chưa cho sữa, nên
người ta chưa biết liệu sữa
của chúng có dùng làm vacxin tiêm chủng
được không.
Minh Hy (theo SPIEGEL,
19/12/2001)
|
17-
Muỗi chuyển gene
chống bệnh sốt rét không đạt yêu
cầu
|
Muỗi mang kư sinh trùng sốt rét
giết chết hơn 1 triệu người
mỗi năm. |
Một nhóm nghiên cứu Anh vừa
cảnh báo rằng, những con muỗi được
biến đổi gene để miễn dịch
với bệnh sốt rét sẽ không thể thay
thế các loại muỗi hoang dại trong tự
nhiên. Nguyên nhân là việc nuôi nhốt nhiều năm
trong pḥng thí nghiệm và hiện tượng giao
phối cận huyết đă làm suy yếu
khả năng sống của chúng.
Để nghiên cứu quá tŕnh xâm
nhập của muỗi biến đổi gene vào
môi trường, Andrea Crisanti và cộng sự
tại Đại học Hoàng gia London đă
tạo ra 4 ḍng muỗi khác nhau, chứa gene mă hóa
protein phát sáng xanh hoặc đỏ (thay cho gene kháng
kư sinh trùng sốt rét), và thả chúng vào tự
nhiên. Họ phát hiện thấy chỉ sau 4
thế hệ, tương đương với
một mùa hè ở nhiều vùng châu Phi, không con
muỗi chuyển gene nào c̣n sống sót.
“Muỗi biến đổi gene không có cơ
hội tồn tại ngoài môi trường",
Crisanti nhận định.
Để đối phó với kư
sinh trùng sốt rét (lây lan qua vật trung gian là
muỗi Anopheles), các nhà khoa học
từng đề ra một chiến lược mới: đó là dùng muỗi
biến đổi gene (không mắc bệnh) thay
thế cho muỗi tự nhiên: Người ta
gắn cho những con muỗi trong pḥng thí
nghiệm một loại gene có thể phá vỡ ṿng
đời của kư sinh trùng gây bệnh, rồi
thả chúng ra ngoài môi trường để giao
phối với muỗi hoang dă.
Theo tính toán lư thuyết, sau một vài
thế hệ, cả quần thể muỗi
sẽ được mang gene chống bệnh
sốt rét này. Nhưng thực tế th́ ngược
lại, gene kháng bệnh không thể phát huy tác
dụng.
Crisanti cho biết phải thả ra hàng
triệu con muỗi biến đổi gene trong
một khu vực, th́ chúng mới có cơ hội
thay thế các loài trong tự nhiên đang mang
mầm bệnh. "Quy mô và chi phí cho một thí
nghiệm như vậy là cực lớn, nên
dự án không có tính khả thi", nhà sinh thái
học về muỗi Willem Takken tại Đại
học Wageningen, Hà Lan, cho biết. Thêm nữa,
đa dạng gene cũng giúp cho muỗi hoang
dại có ưu thế tiến hóa cao hơn
hẳn so với những con muỗi thí nghiệm
(đă giao phối cận huyết nhiều đời).
Trước t́nh h́nh này, Crisanti đă
đề ra một giải pháp đối phó,
đó là cho muỗi chuyển gene giao phối
những với những con hoang dă và lựa
chọn thế hệ con được thừa
kế gene này, sau đó thả chúng vào môi trường.
Chỉ có như vậy, muỗi lai mới có
đủ sức lấn át những người
anh em hoang dại của chúng.
B.H. (theo Nature,
22/2/2003)
|
18-
T́m thấy vi khuẩn tích
hợp gene vào động vật
|
Wolbachia sống trong tế bào
của nhiều loài côn trùng, trong đó có
ong. |
Các nhà nghiên cứu Nhật Bản
khẳng định đă nhận ra một nhóm
gene của vi khuẩn lẫn trong bộ gene
của một loài ong. Đây có thể là
bằng chứng đầu tiên về hiện tượng
chuyển gene tự nhiên giữa vi khuẩn và
động vật.
Cho tới nay, rất nhiều nhà nghiên
cứu đă phỏng đoán về sự
tồn tại của hiện tượng tích
hợp này, tuy nhiên chưa ai đưa ra
được bằng chứng cụ thể. Nay,
các nhà nghiên cứu tại Đại học Tokyo
cho biết họ đă t́m thấy hơn 11 gene
của vi khuẩn Wolbachia trong một
nhiễm sắc thể của loài ong Callosobruchus
chinensis.
“Rất nhiều nhà nghiên cứu
đă t́m thấy mối liên quan giữa khuẩn
Wolbachia và vật chủ của nó, nhưng
chưa ai có được nhiều dữ
liệu như chúng tôi hiện nay”, nghiên cứu
sinh Natsuko Kondo, người đă t́m ra các gene
“di cư” này, cho biết. C̣n nhà sinh vật
học tiến hóa James Cook, từng nghiên cứu
về Wolbachia tại Đại học Hoàng
Gia London, nhận định: “Trong những trường
hợp chuyển gene t́m thấy trước đây,
người ta có thể lư giải theo nhiều cách
khác nhau, c̣n trường hợp này th́ rất rơ
ràng. Họ (nhóm nghiên cứu) đă biết đích
xác các gene này từ đâu đến và sẽ
ở đâu”.
Phát hiện này có thể giúp các nhà
khoa học làm sáng tỏ một nghi vấn lâu
nay, rằng liệu hiện tượng tích
hợp tương tự có từng xảy ra trên
người hay không. Chẳng hạn, các nhà khoa
học vẫn rất khó giải thích về
sự có mặt của ty thể trong các tế bào
người. Ty thể là một loại cấu trúc
dạng túi, nằm ngoài nhân. Điều đặc
biệt là nó chứa các gene riêng, độc
lập với vật chất di truyền ở
trong nhân. Các nhà khoa học cho rằng có lẽ nó
chính là một dạng vi khuẩn đă xâm
nhập vào loài người từ xa xưa.
Ngoài ra, nếu nhận định
của nhóm nghiên cứu đứng vững, người
ta cũng sẽ phải quan tâm hơn tới
những thực vật chuyển gene hiện nay, và
liệu rằng các gene của vi khuẩn
được đưa vào cây trồng có
thể "nhảy" sang các sinh vật khác hay
không.
B.H. (theo Nature),
27/9/2002
|
19-
Khoai tây chuyển gene - tránh
vỏ dưa gặp vỏ dừa
Đôi khi, các nhà khoa học đă không
lường hết những hiệu ứng
phụ của quá tŕnh chuyển gene thực
vật. Ví dụ mới nhất là những cây
khoai tây biến đổi gene để đối
phó với sâu hút nhựa lại trở thành
"đặc sản" cho các loài côn trùng gây
hại khác.
Lâu nay, các loại cây như ngô và bông
đă được biến đổi gene để
chống chịu với sâu ăn lá, bằng cách
bổ sung một gene tạo ra chất độc
Bt. Nhưng Bt không xua đuổi được côn
trùng hút nhựa (chẳng hạn rệp vừng),
v́ thế, các chuyên gia xoay sang t́m kiếm
những "vũ khí" tự nhiên khác,
chẳng hạn protein lectin được t́m
thấy trong nhiều loài côn trùng và thực
vật.
Nay, nhóm nghiên cứu của Nick Birch
tại Viện nghiên cứu sản lượng
Scotlend đă phát hiện thấy những cây khoai
tây được ghép gene lectin th́ có hàm lượng
chất đắng glycoalkaloids (chất khiến nó
trở nên khó nuốt với nhiều loài thú và
côn trùng) giảm đi 44%. Các nhà khoa học
cảnh báo rằng, việc mất đi một
phần glycoalkaloids sẽ khiến thực vật
dễ bị tổn thương hơn trước
hàng loạt các loài sâu hại khác, như bọ
nhảy lá hay rệp vừng.
Angelika Hilbeck, một nhà sinh thái
học tại Viện công nghệ liên bang
Thụy sĩ ở Zurich nhận xét: “Kết
quả này thật đáng ngạc nhiên. Nó
chỉ ra rằng, chúng ta cần hiểu biết
thật rơ về những hiệu ứng phụ
không mong muốn lên các sản phẩm chuyển
gene trước khi đưa ra áp dụng đại
trà”
B.H. (theo NewSci,
3/6/2002)
|
20- Khỉ
sống lâu hơn nhờ thận của lợn
biến đổi gene
|
Nội tạng của những
con lợn nhỏ này xấp xỉ với kích
cỡ nội tạng người, do đó
thuận lợi cho cấy ghép. |
8 con khỉ đầu chó đă
sống thêm 81 ngày, sau khi được ghép
thận của lợn biến đổi gene, so
với khoảng 30 ngày khi được ghép
bằng nội tạng lợn thường. Các nhà
khoa học Mỹ hy vọng thành công ban đầu
này có thể mở đường cho việc
cấy ghép nội tạng động vật lên
người.
Năm 2002, những con lợn thí
nghiệm trên đă được biến đổi
gene để có nội tạng thân thiện
với người. Chúng bị tước bỏ
gene GGTA1 - gene có vai tṛ bổ sung phân tử
đường alpha-1,3-galactose vào trong tế bào.
Thông thường, phân tử đường này
sẽ kích thích hệ miễn dịch của người
và khỉ tấn công quyết liệt vào các mô
lạ. Song khi mất gene GGTA1, nội tạng
của lợn không c̣n "gây khó chịu" cho
sinh vật khác nữa, và do đó, chúng sẽ yên
ổn hơn khi cư trú trên cơ thể
mới.
David Sachs, thuộc Bệnh viện
tổng hợp Massachusetts ở Cambridge (Mỹ), và
cộng sự đă cấy ghép thận của
những con lợn biến đổi gene này lên 8
con khỉ đầu chó. Nội tạng mới
đă giúp các con vật sống được thêm
81 ngày.
Kết quả này chứng tỏ
về nguyên tắc, nội tạng lợn
biến đổi gene dă tránh được
phản ứng đào thải dữ dội
của khỉ, và có thể cũng sẽ thoát
được sự tấn công trong cơ
thể người. "Đây là bằng
chứng cho thấy sự đào thải là
trở ngại có thể vượt qua", nhà
nghiên cứu miễn dịch đào thải Kathryn
Wood của Đại học Oxford, Anh, cho biết.
Trước kia, các nhà nghiên cứu
cũng đă tạo ra những con lợn biến
đổi gene, phục vụ cấy ghép nội
tạng, nhưng chúng thường mang thêm gene
mới để triệt tiêu phản ứng
miễn dịch của thân chủ, thay v́ tránh nó
đi.
Tuy nhiên, thành công mới đây cũng
không có nghĩa là đèn xanh cho việc cấy ghép
nội tạng lợn - người đă
bật. Các nhà khoa học c̣n phải vượt
qua những thách thức khác của hệ
miễn dịch, chẳng hạn như hiện tượng
đông máu đă giết chết một số
con vật thí nghiệm. Ngoài ra, cũng c̣n
những mối lo ngại khác như nội
tạng lợn có thể mang virus gây hại mà chúng
ta chưa biết tới.
B.H. (theo Nature)
|
21- Thực
vật biến đổi gene có từ 4.000 năm
trước
|
Ngô - nguồn thức ăn chính
của nhiều dân tộc. |
Những người châu Mỹ cổ
đại đă biến đổi gene cây ngô thông
qua chọn lựa giống từ hơn 4.000 năm
trước. Chính sự biến đổi này
đă tạo ra những bắp ngô to và hạt ngô
giàu chất dinh dưỡng - nguồn thực
phẩm chính của nhân loại ngày nay.
Các nhà nghiên cứu Mỹ đă so sánh
gene của những hạt ngô được t́m
thấy ở Mexico và tây nam nước Mỹ.
Họ nhận thấy có 3 biến thể gene
chủ chốt đă được cải
thiện một cách hệ thống, thông qua
việc trồng trọt có chọn lựa qua hàng
ngh́n năm.
Kỹ thuật này không phức
tạp như những biện pháp biến đổi
gene ngày nay, nhưng hiệu quả th́ tương
tự: các đặc tính gene được tăng
cường hoặc bổ sung để tạo ra
những sản phẩm có chất lượng
tốt và các vụ mùa bội thu hơn.
Cây ngô cổ đại, teosinte,
bắt đầu được trồng trong
khoảng 6.000 đến 9.000 năm trước, bên
thung lũng sông Balsas ở nam Mexico. Ban đầu
teosinte trông giống như những cây cỏ có
nhiều thân, mang trên ḿnh các bắp nhỏ
với hạt có vỏ cứng.
Bằng cách chọn lựa những
đặc tính cây trồng theo ư muốn, nông dân
cổ đại đă biến teosinte thành
loại cây bổ dưỡng ngày nay. Các nhà nghiên
cứu cho biết, khoảng 5.500 năm trước
kích cỡ của hạt ngô to hơn nhiều so
với bây giờ. Hơn 1.000 năm sau th́ mọi
đặc điểm gene có trong ngô hiện đại
đều xuất hiện tại các vụ mùa
ở Mexico thời đó.
Nhà di truyền học thực
vật Nina V. Fedoroff tại Đại học
Pennsylvania, Mỹ, cho rằng những thay đổi
đó không thể là ngẫu nhiên. "Người
nông dân trước đây hẳn đă trí
tuệ hơn chúng ta tưởng".
"Sự khác biệt giữa ngô và
teosinte chỉ nằm ở một vài gene nhưng
hiệu quả là rất lớn. Những nông dân
cổ đại hẳn đă nhận ra sự khác
biệt này và đă liên tục nhân giống,
cải thiện sản phẩm".
Một gene thay đổi cấu trúc
cây ngô từ nhiều nhánh sang chỉ c̣n một
thân với nhiều tua trên đỉnh và
những bắp ngô mọc trên thân. Biến đổi
gene khác làm mềm vỏ hạt ngô và làm hạt
ngô dính chặt vào lơi ngô. Một biến đổi
gene nữa tăng cường chất bột cho
hạt ngô. Thay đổi cuối cùng này c̣n giúp
người nông dân tạo ra những chiếc bánh
ngô ngon lành.
Hiện các nhà khoa họcbiến đổi
thực vật bằng cách
chuyển đổi gene từ giống này sang
giống khác và thực hiện trong pḥng thí
nghiệm. Nhiều tổ chức cho rằng
biện pháp này là nguy hiểm. Một số
quốc gia châu Âu và châu Phi cấm nhập
khẩu thực vật biến đổi gene.
Nhưng Fedoroff cho rằng thực
tế cả thế giới đang ăn thực
phẩm biến đổi gene. Trong hàng ngh́n năm,
lúa ở Trung Quốc, lúa ḿ ở Trung Đông và
ngô ở Mexico đều được thay đổi
qua chọn lọc. "Mọi người lo
ngại về những thứ họ cho vào
bụng, nhưng nền văn minh nhân loại
thực tế đă được xây dựng
dựa trên thực vật biến đổi gene.
Chúng ta sẽ không thể có nền văn minh ngày
nay nếu không có chúng", Fedoroff tuyên bố.
Minh Thi (theo AP)
|
22-
Ngô chuyển gene 'tấn
công' các cánh đồng Mexico
|
Những cánh đồng ngô
bản địa Mexico.
|
Các nhà khoa học phát hiện trong
bộ mă di truyền của ngô ở nhiều cánh
đồng tại Oaxaca, Mexico, có các đoạn
ADN đặc thù của ngô chuyển gene. Điều
này khiến nông dân bản xứ lo ngại, v́
sợ rằng chẳng mấy chốc những cánh
đồng ngô bản địa sẽ bị lai
bởi ngô chuyển gene.
David Quist và Ignacio Chapela, Đại
học Berkeley ở California (Mỹ) đă xác
định có khoảng 3-11% ngô bản địa
bị "nhiễm" ADN của ngô chuyển
gene. Ông Quist cho rằng đây là một bất
ngờ lớn, v́ từ năm 1998 đến
nay, Mexico hầu như không trồng ngô
chuyển gene nữa. Như vậy, hoặc là
phấn ngô chuyển gene từ các vườn
giống ở Oaxaca đă bay ra ngoài trong ṿng bán
kính 100 km, hoặc bộ mă di truyền của ngô
chuyển gene từ trước năm 1998
vẫn c̣n sót lại ở đâu đó và
truyền cho ngô đồng.
|
Phản đối cây
trồng chuyển gene ở Anh.
|
Theo Quist, cũng có thể ngô
chuyển gene đă xâm nhập các cánh đồng
Mexico theo con đường khác: Trên thị trường
có rất nhiều ngô chuyển gene được
nhập từ Mỹ, và bằng cách nào đó, chúng
đă t́m cách "ḅ" ra đồng.
Hiện ở nhiều nước (như
Anh, Mexico, Đức...), người ta vẫn cho
rằng ăn thực phẩm biến đổi
gene không đảm bảo sức khỏe. Nhưng
theo các nhà khoa học, những lo ngại ấy là
không có cơ sở. Thực tế, cây trồng
chuyển gene có nhiều đặc tính chịu
đựng tốt, cho năng suất cao, có
thể giải quyết vấn đề lương
thực cho thế giới.
Minh Hy (theo BBC,
dpa)
|
23-
Dân tẩy chay thực
phẩm chuyển gene, nhà khoa học "đổi
nghề"
|
Cừu Dolly được các
nhà khoa học viện Roslin tạo ra năm
1996.
|
Cừu Dolly có thể sẽ chẳng
bao giờ ra đời, nếu từ những năm
90, người ta đă phản ứng gay gắt
với thực phẩm chuyển gene như
hiện nay. Viện Roslin, chủ nhân của con
cừu nổi tiếng này, cho biết, chẳng c̣n
động lực nào tạo ra gà, cừu hay
lợn biến đổi gene nữa, nếu không
ai muốn ăn các sản phẩm mà họ
tạo ra.
Sự thù địch của công chúng
đối với thực phẩm biến đổi
gene ở Anh đă buộc Viện Roslin (có
trụ sở gần Edinburgh, Anh) phải đánh
giá lai các mục tiêu nghiên cứu của ḿnh.
“Không thể quanh quẩn măi trong các nghiên
cứu nông nghiệp được, chúng tôi
cần phát triển các sản phẩm sử
dụng được trong công nghiệp y sinh”,
Giáo sư Grahame Bulfield cho biết.
Trước thực tế đó,
Viện đă dự định tập trung vào các
ứng dụng y sinh của công nghệ nhân
bản (như nghiên cứu trên tế bào gốc
và chuyển nhân) hơn là các nghiên cứu nông
nghiệp thuần tuư như đă tạo ra
cừu Dolly.
Roslin nổi lên như cồn vào năm
1997 khi họ công bố con cừu nhân bản thành
công đầu tiên, Dolly. Giờ đây, viện này
đă trở thành trung tâm hàng đầu thế
giới về nghiên cứu gene trên các động
vật chăn nuôi. Tuy nhiên, các nghiên cứu nông
nghiệp đă giảm xuống trong những năm
qua và hiện chỉ c̣n chiếm 20%, so với 70%
ở đầu thập kỷ 90.
B.H. (theo BBC)
|
24- Sẽ
xuất hiện vận động viên chuyển
gene ở Olympic 2012?
|
Ben Johnson đă sử dụng
doping, lập kỷ lục chạy 100 mét.
|
Trong tương lai, người ta có
thể sẽ phải xử lư các vụ bê
bối do những "siêu VĐV" sử
dụng kỹ thuật gene để nâng tốc
độ và sức dẻo dai của cơ
thể. Đó là nội dung lời cảnh báo hôm
qua (30/11) của các nhà khoa học.
Theo đó, các phương pháp
trị liệu gene - vốn được dùng
để chữa các bệnh như xơ nang - có
thể sẽ bị lợi dụng để làm
tăng thể lực cho VĐV, giống như khi
người ta dùng doping. "Tiểu xảo"
mới này được gọi là gene doping. Các
nhà nghiên cứu thể thao cho rằng, ngay từ
bây giờ người ta cần có kế
hoạch triển khai kỹ thuật để t́m
ra các trường hợp đó.
Ủy ban Olympic Thế giới cho
đây là vấn đề nghiêm túc, và đă thành
lập một nhóm giám sát các trường
hợp gene doping.
3 năm trước đây, ở
Tour de France, cả một đội đua xe đạp
đă phải dừng lại khi người ta phát
hiện họ sử dụng erythropoetin (EPO -
một loại hormone làm tăng lượng
hồng cầu, cung cấp nhiều ôxy hơn cho cơ
thể). Tuy nhiên, trong một số trường
hợp, chất EPO có thể gây nghẽn mạch
máu. Và đến nay đă có ít nhất 20 VĐV
xe đạp bị chết do sử dụng EPO.
Bác sĩ Hugh Montgomery - một chuyên
gia nghiên cứu ảnh hưởng của
liệu pháp gene đến tốc độ và
sự dẻo dai của người - cho biết,
ông lo ngại khả năng người ta
đưa các vật liệu di truyền vào
tế bào của VĐV nhằm nâng cao thể
lực cho họ.
Năm 1998, VĐV điền kinh người
Canada, Ben Johnson, đă gây ra vụ scandal lớn
nhất trong lịch sử Olympic khi sử dụng
doping để lập kỷ lục chạy 100 mét.
Tuy nhiên, các VĐV ngày nay đều biết
rằng nếu dùng phương pháp biến đổi
gene, họ sẽ có lượng hồng cầu
nhiều gấp rưỡi mà vẫn khó bị phát
hiện hơn các kiểu doping khác. Các nhà khoa
học lo ngại, đến năm 2012, khi kỹ
thuật gene đă phát triển đến độ
tinh vi, người ta có thể tạo ra các "VĐV
chuyển gene" giành huy chương vàng Olympic.
Minh Hy (theo BBC,
25/9/2001) |
|
|