Những khám phá về Gene

vnExpress

 
31- Biến mă ADN thành âm nhạc
32- T́m ra gene quy định khả năng lan truyền của ung thư.
33- T́m thấy 'con lai' của hai loại HIV
34- Muỗi sốt rét kháng thuốc nhờ đột biến gene 
35- Đột biến gene tạo nên sự trường thọ
36- Canada tiến gần hơn tới vacxin pḥng SARS
37- Sống lành mạnh giúp tŕ hoăn thời điểm mắc ung thư vú
38- Giun nắm giữ bí quyết sống lâu của con người
39- Cây cối có khả năng thích nghi với phóng xạ
40- Giun thay đổi hành vi giao phối v́ thảm họa Chernobyl 
41- Thuốc chống sốt rét từ vi khuẩn và ngải tây
42- Ong sửa gene theo 'nghề nghiệp'
43- T́m thấy Eve của họ nhà rùa trên đảo Galapagos?
44- Phát hiện  ở chuột gene đóng vai tṛ quan trọng trong hành vi hung hăn và lo lắng
45- Hy vọng mới trong việc cấy ghép nội tạng lợn cho người 
46- V́ sao người nói được mà tinh tinh th́ không?
47- Ham đồ ngọt - dấu hiệu có di truyền gene của chứng nghiện rượu
48- Voi Borneo được công nhận là phụ loài mới
49- Sinh con già tháng, có thể do gene của người cha 
50- Tại sao ong đực không có cha?
51- Gene thông báo thời điểm rụng lá cho cây
52- Các dân tộc trên khắp thế giới chỉ có 3% gen khác nhau
53- Brazil: Màu da không phản ánh đúng chủng tộc
54- Phát hiện loài cóc tía mới
55- Hoàn tất phác thảo bản đồ gene chuột
56- Công bố bản đồ chi tiết gene người
57- Tranh căi về số gene người bùng nổ
58- SARS có thể là 'con' của virus từ chim và động vật có vú

 

 

31- Biến mă ADN thành âm nhạc

 

Bản nhạc từ mă gen Connexin 26.

Hăy tưởng tượng bộ gene con người như là một bản nhạc. Tách những chuỗi ADN xoắn kép ra, h́nh dung mỗi thành phần của nó là một phím đàn, tương ứng với một nốt nhạc. Nào, hăy lướt các ngón tay của bạn trên những phím đàn đó.

Các nhà khoa học tại bệnh viện Ramon y Cajal ở Madrid, thủ đô Tây Ban Nha, làm việc đó chỉ với mục đích giải trí, và đă ghi âm lại cái mà họ gọi là phiên bản âm thanh của mật mă sự sống.

Sản phẩm cuối cùng được gọi là “Âm nhạc của gene” - một đĩa CD gồm 10 giai điệu sẽ được phát hành vào tháng hai tới. “Đó là cách để đưa khoa học và âm nhạc tới gần nhau hơn”, tiến sĩ Aurora Sanchez, một chuyên gia về vi sinh vật học cho biết.

Chuỗi xoắn kép ADN, hay axit deoxyribonucleic, được tạo thành từ những chuỗi phân tử nucleotide, với 4 loại nucleotide khác nhau, được phân biệt bởi bốn thành phần chứa nitơ, gồm: adenine, guanine, thymine, cytosine viết tắt là A, G, T và C. Những nucleotide này được mă hóa thành các nốt nhạc.

Nhà soạn nhạc người Pháp Richard Krull đă phổ nhạc cho các mẫu gene, giống như AGCGTATACGAGT. Ông gắn cho mỗi nucleotide một nốt nhạc, trong dăy 8 nốt: đồ, rê, mi..., chẳng hạn thymine là nốt rê, guanine nốt sol, adenine là nốt la và cytosine là nốt đồ.

Nh́n chung, nhạc của mă gene khá dễ nghe, và một trong những giai điệu êm ái nhất là dựa vào gene Connexin 26 - gene gây bệnh điếc cho người khi nó bị đột biến.

K.H. (theo ABC, 27/1/2003)

 

32- T́m ra gene quy định khả năng lan truyền của ung thư.

 

Aspirin mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe.

Aspirin giúp ngăn ngừa ung thư đường tiêu hóa * Túi ôxy làm liền vết thương * T́m ra gene quy định khả năng lan truyền của ung thư.

Aspirin có thể bảo vệ bạn khỏi ung thư miệng, họng và thực quản. Các nhà nghiên cứu tại Italy cho biết, dùng aspirin đều đặn trong ṿng 5 năm làm giảm được 2/3 nguy cơ nhiễm các bệnh này. Những nghiên cứu trước đây cho thấy, loại dược phẩm ra đời cách đây 100 năm này có thể giúp bảo vệ bạn khỏi ung thư ruột và phổi.

Trong khi phần lớn mọi người dùng aspirin để giảm đau, thuốc cũng được dùng rộng răi để ngăn ngừa bệnh tim và thậm chí cả viêm khớp.

BBC

Cho da vùng bị tổn thương tiếp xúc trực tiếp với ôxy nguyên chất có thể là cách tốt nhất để làm liền các vết thương. Nhà sản xuất GWR Medical (Mỹ) đă chế tạo ra một dụng cụ xách tay dùng một lần để làm liền vết thương theo nguyên tắc nói trên. Một túi plastic chứa ôxy nguyên chất nén dưới áp lực cao được dán trực tiếp vào da ở quanh vết thương và giữ như vậy trong 90 phút. Phương pháp này giúp làm liền vết thương nhanh mà không cần tới bất cứ h́nh thức điều trị nào khác.

Daily Mail 

Các nhà khoa học Mỹ đă phát hiện ra rằng, bí quyết giúp ung thư lan truyền được trong cơ thể chính là một gene đặc biệt tên là Cyclin D1. Thử nghiệm tại pḥng thí nghiệm cho thấy, khi gene này bị "hạ gục", các tế bào của khối u sẽ mất khả năng di chuyển. Theo các nhà khoa học, phát hiện này có thể mở ra khả năng mới trong điều trị ung thư. Rất có thể trong tương lai sẽ xuất hiện một loại thuốc có thể ngăn chặn hoặc làm chậm lại sự tiến triển của bệnh này.  

 Times

Thu Thủy (6/3/2003)

 

33- T́m thấy 'con lai' của hai loại HIV

 

Các nhà khoa học Mỹ vừa phát hiện trường hợp đầu tiên có 2 chủng HIV kết hợp gene để thành một virus lai. Khả năng kết hợp này không chỉ đe dọa từng bệnh nhân đơn lẻ, mà có thể khiến hành tŕnh t́m vaccine pḥng chống HIV sẽ không bao giờ tới đích.

Trước đây, người ta đă nghi ngờ rằng các chủng virus HIV có thể kết hợp để tạo ra một chủng virus lai mới, nhưng chưa có bằng chứng nào chứng minh điều đó.

Hôm thứ hai, Harold Burger và cộng sự, thuộc Trung tâm nghiên cứu Wadsworth (New York, Mỹ), đă công bố kết quả nghiên cứu của họ đối với một loại virus HIV "lai" được t́m thấy trên một cô gái làng chơi người Kenya. 

Người phụ nữ này đă được xét nghiệm lần đầu tiên vào năm 1986, cho kết quả dương tính với HIV-1 loại A. Mặc dù tiếp xúc với loại virus này nhiều lần thông qua bán dâm, bệnh nhân vẫn tương đối mạnh khoẻ. Tuy nhiên, vào năm 1992, cô ta đột nhiên bị một cơn sốt cấp tính. Các tế bào bạch cầu CD4 đột ngột giảm đến 80%, và số lượng virus trong cơ thể tăng lên không ngừng. Các nhà khoa học đă không lư giải được trường hợp này.

Cho đến khi Harold và cộng sự tiến hành xét nghiệm lại gene của loại HIV ở người phụ nữ trên vào năm 1995 và 1997, họ đă phát hiện kiểu gene lai giữa loại A và loại C của HIV-1. Gene của loại virus mới cơ bản giống với gene của loại A, nhưng đoạn quy định vỏ virus th́ lại là của loại C.

Theo Harold, rơ ràng là các loại HIV có khả năng trộn gene để sinh ra "con lai" mới. Khả năng này sẽ đặc biệt được phát huy khi người ta không thể kiểm soát được nạn mại dâm trên khắp thế giới.

Tử Vi (theo Newscientist, 18/7/2003)

 

34- Muỗi sốt rét kháng thuốc nhờ đột biến gene

 

Các nhà khoa học Pháp mới đây đă cho rằng, "vũ khí" mà loài muỗi mang căn bệnh nhiệt đới này tự trang bị để đối phó với đa số các loại thuốc trừ sâu là một đột biến gene duy nhất.

Thuốc trừ sâu mà cả thế giới hiện dùng để ḱm hăm sự phát triển của muỗi được làm từ những hoá chất organophosphate và carbamate. Chúng tác dụng theo cơ chế làm ngừng hoạt động của một enzyme chủ chốt trong hệ thần kinh của côn trùng, được gọi là acetylcholinesterase, khiến côn trùng trở nên tê liệt và nhanh chóng tử vong.

Tuy nhiên, đa số các loài muỗi lại nhanh chóng phát triển khả năng kháng thuốc, đặc biệt ở vùng đô thị, là những nơi được tẩy trùng nhiều nhất.

Mới đây, nhóm nghiên cứu của Mylène Weill, thuộc Đại học Montpellier II ở Pháp, khi xác định được gene mă hoá enzyme acetylcholinesterase, đă phát hiện thấy có một sự sai khác trong gene này, và chính nó là để cơ sở để muỗi kháng lại hai loại thuốc trừ sâu.

Tiếp tục nghiên cứu, nhóm đă t́m thấy đột biến gene nói trên ở anopheles gambiae - một ḍng muỗi mang bệnh sốt rét có thể kháng thuốc trừ sâu - và trên một vài quần thể muỗi Culex pipiens, mang virus tây sông Nile và các loại virus khác gây ra sốt rét ở chim.

Theo nhận định của Mats Wahlgren, chuyên gia nghiên cứu về bệnh sốt rét của Viện Karolinska, Stockholm, Thụy Điển, đây là một phát hiện quan trọng. "Nó làm tăng cường sự hiểu biết của chúng ta về cơ chế kháng thuốc, và có thể giúp phát triển các loại thuốc trừ sâu mới", Wahlgren nói.

Nhóm của Weill hiện tiếp tục nghiên cứu trên các loài muỗi kháng thuốc khác, như Aedes aegypti (truyền bệnh sốt vàng da và sốt xuất huyết) để xem liệu chúng có cùng đột biến với những ḍng muỗi trên hay không.

B.H. (theo Nature, 9/5/2003)

 

 

35- Đột biến gene tạo nên sự trường thọ

 

Đột biến C150T xuất hiện nhiều hơn hẳn ở những người sống trên trăm tuổi.

Lần đầu tiên, các nhà khoa học đă t́m thấy một đột biến gene chung trên những người sống lâu trăm tuổi. Phát hiện này có thể là ch́a khóa quan trọng để t́m ra cách thức tránh được sự lăo hóa.

Trong một nghiên cứu trên 52 cụ già Italy, đều thọ hơn trăm tuổi, các nhà nghiên cứu tại Viện công nghệ California ở Pasadena (Mỹ) nhận thấy, 17% trong số này có chứa đột biến C150T trong ADN ty thể (loại ADN nằm ngoài nhân tế bào). Trong khi đó, chỉ có 3,4% trong số 117 người dưới tuổi 99 là chứa đột biến trên, nghĩa là chỉ bằng một phần năm.

Theo các nhà nghiên cứu, dường như đột biến C150T đă kích thích sự tái tạo của các ADN ty thể, cho phép cơ thể thay thế những tế bào già nua một cách nhanh hơn. (Ty thể là một cấu trúc của tế bào, nằm ngoài nhân, với chức năng chuyển hóa thức ăn thành năng lượng sinh học có ích).

Để kiểm tra xem đột biến trên có phải là do di truyền hay không, các nhà khoa học đă nghiên cứu mẫu tế bào da của những người thí nghiệm, được thu thập hai lần cách nhau 9-19 năm. Trên một số người, cả hai mẫu đều chứa đột biến, trong khi ở những người khác, đột biến xuất hiện sau. Điều đó chứng tỏ, đột biến này có thể di truyền, cũng có thể phát sinh trong quá tŕnh sống.

B.H. (theo Reuters, 13/2/2003)

 

36- Canada tiến gần hơn tới vacxin pḥng SARS

 

Một số bệnh viện ở Canada tăng cường kiểm soát pḥng chống SARS.

Loại vacxin tiềm năng sẽ bao gồm gene mang protein mấu chốt của virus SARS, được gắn vào loại virus gây cảm lạnh thường vô hại. Sản phẩm này của các nhà nghiên cứu Canada sẽ sớm được thử nghiệm trên cơ thể người trong năm nay.

Giới chuyên môn đánh giá rất cao thành công trên, và nhận định đây là mốc quan trọng trong quá tŕnh phát triển vacxin pḥng căn bệnh chết người SARS. Tuy nhiên, theo trưởng nhóm nghiên cứu Jack Gauldie thuộc Đại học tổng hợp McMaster, tỉnh Ontario, hiện c̣n quá sớm để khẳng định hiệu quả của loại vacxin này, v́ nó phải trải qua nhiều thử nghiệm trên chuột, khỉ và người trước khi được áp dụng rộng răi. Nhóm cũng đang phát triển thêm loại vacxin tiềm năng thứ 2, dưới sự hỗ trợ của Nhóm phát triển vacxin SARS thuộc Trung tâm Kiểm soát bệnh tật Columbia (Anh)

Trong khi đó, tại Đài Loan, các nhà khoa học tại bệnh viện Mackay Memorial vừa phát hiện ra một phiên bản có tên là HLA - B 4601 thuộc nhóm gene HLA (human leukocyte antigen) của hệ miễn dịch người. Phiên bản này có thể đă tham gia định hướng sự lây lan dịch SARS. HLA - B 4601 rất phổ biến ở những nhóm dân cư gốc miền nam Trung Quốc, và hiếm gặp ở người châu Âu. Nó được t́m thấy ở hầu hết bệnh nhân SARS thuộc nghiên cứu.

Theo các chuyên gia, phát hiện trên có thể giải thích v́ sao sau khi SARS bùng phát ở tỉnh Quảng Đông Trung Quốc, các hướng lây lan dịch chủ yếu tập trung ở những nhóm dân cư có nguồn gốc từ miền nam châu Á như Hong Kong, Singapore, Đài Loan và Việt Nam. Chính phiên bản gene này có thể đă khiến cơ thể nhạy cảm hơn với virus SARS, và những người mang gene có nguy cơ nhiễm bệnh cao.

Phát hiện sẽ được các nhóm nghiên cứu độc lập trên thế giới kiểm nghiệm.

Mỹ Linh (theo Reuters, 2/10/2003)

 

37- Sống lành mạnh giúp tŕ hoăn thời điểm mắc ung thư vú

 

Gene và môi trường quyết định nguy cơ mắc bệnh ung thư vú.

Ở những người dễ bị ung thư vú do mang gene đột biến, việc tăng cường vận động cơ thể và kiểm soát tốt cân nặng lúc trẻ có thể làm cho bệnh đến muộn hơn. Đây là phát hiện mới nhất của Hiệp hội nghiên cứu Ung thư vú New York, Mỹ.

Trưởng nhóm nghiên cứu Mary-Claire King cho biết, những phụ nữ mang một trong hai gene BRCA1 hoặc BRCA2 đột biến có 80% nguy cơ phát triển ung thư vú. Những biến đổi của 2 gene này làm suy giảm khả năng tự sữa chữa tế bào của cơ thể. Ngoài ra, họ có thể bị căn bệnh ung thư buồng trứng đe dọa.

Tuy nhiên, giáo sư King nhấn mạnh: "việc tăng cường luyện tập cơ thể và kiểm soát cân nặng hợp lư trong thời kỳ thanh thiếu niên có thể tŕ hoăn được thời điểm khởi phát bệnh”.

Bà cùng cộng sự đă tiến hành một nghiên cứu được xem là quy mô nhất từ trước tới nay trong lĩnh vực ung thư vú - t́m hiểu cấu trúc gene của hơn 2.000 phụ nữ đến từ những gia đ́nh có ít nhất 1 người mắc bệnh.

Kết quả cho thấy, những người chăm chỉ vận động cơ thể khi c̣n trẻ thường mắc bệnh muộn hơn người không tập luyện. Và những người không bị béo ph́, giữ cân nặng phù hợp với giai đoạn tuổi này cũng nhận được kết quả tương tự.

Ngoài ra, nhóm chuyên gia c̣n nhận thấy, những người mang gene đột biến và sinh trước năm 1940 có 24% nguy cơ phát triển bệnh ở tuổi 50. Trong khi nguy cơ ở nhóm mang gene tương tự nhưng sinh sau năm 1940 cao hơn nhiều, tới 67%. Điều này chứng tỏ yếu tố môi trường đóng vai tṛ quan trọng trong việc quyết định thời điểm mắc bệnh. Nghiên cứu cũng phủ nhận luận điểm trước đây, rằng phụ nữ chỉ "thừa hưởng" nguy cơ từ mẹ. "Điều này là hoàn toàn sai lầm v́ nó c̣n liên quan đến bệnh sử của người cha và gia đ́nh họ nội", King nói.

Mỹ Linh (theo BBC)

 

38- Giun nắm giữ bí quyết sống lâu của con người

 

Giun Caenorhabditis elegans.

Con người có thể sống tới hàng trăm năm nếu bắt chước quy luật sinh học của những con giun. Bằng cách thay đổi gene và hormone, các nhà khoa học đă kéo dài tuổi thọ của giun C. elegans lên 6 lần. Nếu như ở con người th́ tức là họ có thể sống khỏe mạnh tới 500 năm.

Đó là thành tựu kéo dài tuổi thọ cao nhất mà các nhà khoa học đạt được từ trước tới nay. Họ cho rằng kết quả này có thể áp dụng cho động vật có vú.

Một nhóm nghiên cứu tại tại Đại học California, Mỹ, đă tiến hành thử nghiệm trên giun C. elegans và nhận thấy, nếu tạo ra đột biến nhằm kiềm chế hoạt động của insulin (insulin là một hormone trao đổi chất có chức năng điều khiển phân tử glucose trong cơ thể), th́ loài sinh vật này có thể sống gấp đôi tuổi đời b́nh thường. Ngoài ra, loại bỏ cơ quan sinh sản của giun có thể giúp nó tăng tuổi thọ 60%. Kết hợp việc biến đổi gene với loại bỏ cơ quan sinh sản th́ giun có thể sống lâu gấp 6 lần b́nh thường.

"Khả năng kéo dài tuổi thọ này là lâu nhất đối với bất cứ sinh vật nào. Kết quả đặc biệt thú vị ở chỗ cơ chế kiểm soát tuổi thọ của insulin có ở nhiều loài, trong đó có động vật có vú", tiến sĩ Arantes-Oliveira phát biểu.

Minh Thi (theo BBC)

 

39- Cây cối có khả năng thích nghi với phóng xạ

 

Các công tŕnh nghiên cứu mới đây trên những cây thông gần khu trung tâm của thảm họa hạt nhân Chernobyl (Ucraina) đă cho thấy chúng có những bộ gene thích nghi với chất phóng xạ. Một số cây c̣n sống đă “mù hóa” các ADN bằng cách sản sinh ra các chất metylen.

Phản ứng trên giúp các loại cây này bảo vệ được các gene chủ yếu của chúng. Các nhà khoa học Ucraina và Canada đă kiểm tra điều này trong pḥng thí nghiệm: những cây thông trồng trong đất nhiễm phóng xạ sau 10 năm tăng trưởng có tỷ lệ metylen cao hơn b́nh thường 30%.

Đồng hành cùng với các thực nghiệm trên, Viện sinh học biển miền Nam (Sebastropol) đă thả hai con giun vào một hồ nước nhiễm phóng xạ. Kết quả là chúng vẫn có thể sinh sản. Đây là một cách để đảm bảo sự tồn tại nhờ đa dạng sinh học.

(Theo Tia Sáng)

 

40- Giun thay đổi hành vi giao phối v́ thảm họa Chernobyl 

 

Thảm họa Chernobyl đă gây suy thoái môi trường nghiêm trọng.

Những con giun bị nhiễm phóng xạ sau vụ nổ ḷ phản ứng ở nhà máy điện hạt nhân Chernobyl (Ukraina) đă bắt đầu giao phối với những con khác, thay v́ với chính nó. Các nhà khoa học nước này cho biết, phản ứng trên dường như là để làm tăng cơ hội sống sót của chúng.

Đây là một trong những bằng chứng trực tiếp đầu tiên về ảnh hưởng của ô nhiễm phóng xạ lên sinh vật hoang dă. Cho tới nay, mặc dù đă có nhiều bằng chứng về tác động của bức xạ ion hoá lên con người, nhưng những ǵ mà nó gây ra cho động vật vẫn c̣n là bí ẩn.

Mới đây, Ủy ban ngăn ngừa phóng xạ quốc tế - tổ chức chuyên đưa ra các giới hạn an toàn bức xạ - đă mở một cuộc điều tra nhằm t́m ra cách thức tốt nhất để bảo vệ “các loài không phải là con người”, trong đó có dự án nghiên cứu ảnh hưởng của vụ nổ Chernobyl (tháng 4/1986).

Gennady Polikarpov và Victoria Tsytsugina thuộc Viện Sinh học ở Sevastopol, Ukraina, đă nghiên cứu khả năng sinh sản của 3 nhóm giun đất quan trọng trong các hệ sinh thái hồ nước là Nais pardalis, Nais pseudobtusaDero obtusa. Họ so sánh hành vi của 3 loài này trong một hồ gần Chernobyl với những sinh vật cũng thuộc các loài đó, nhưng ở trong một hồ cách đấy 20 km. Cả hai nơi có điều kiện hoá học và nhiệt độ tương tự nhau, nhưng giun sống gần Chernobyl nhận được lượng phóng xạ cao gấp 20 lần đồng loại trong chiếc hồ c̣n lại. 

Các nhà nghiên cứu phát hiện thấy, có sự thay đổi đáng kể trong thói quen giao phối của chúng:

Hai loài giun đầu tiên đă chuyển từ sinh sản vô tính (không cần bạn đời) sang sinh sản lưỡng tính (cần kết đôi). Tỷ lệ những con Nais pardalis t́m kiếm bạn đời để truyền giống là 5% ở hồ thường, và lên đến 22% ở hồ gần Chernobyl. Với loài Nais pseudobtusa, tỷ lệ bị biến tính ở hai hồ tương ứng là 10 và 20%. Riêng loài Dero obtusa, tỷ lệ sinh sản vô tính trong chiếc hồ bị ô nhiễm lại tăng gấp đôi.

Polikarpov cho rằng những con giun đă thay đổi cơ chế sinh sản để tự bảo vệ trước tác động của phóng xạ. V́ rằng việc giao phối lưỡng tính sẽ thúc đẩy chọn lọc tự nhiên, kích hoạt những gene tạo sức đề kháng tốt cho cơ thể.

B.H. (theo New Scientist)

 

41- Thuốc chống sốt rét từ vi khuẩn và ngải tây

 

Artemisinin - loại dược phẩm chống sốt rét hiệu quả nhất hiện nay.

Các nhà nghiên cứu ở California đă sản xuất thành công loại thuốc chống sốt rét hiệu quả nhất hiện nay - artemisinin, với giá thành thấp. Đây là sản phẩm do vi khuẩn E.coli tổng hợp nên, sau khi vi khuẩn này được ghép gene của cây ngải tây (thanh hao hoa vàng) và vi khuẩn men bia.

Artemisinin là một hoá chất có trong cây ngải tây, một vị thuốc chống sốt rét cổ truyền của Trung Quốc. Vị thuốc này tỏ ra rất hiệu quả, ngay cả đối với những chủng virus sốt rét đă kháng hầu hết các loại thuốc. Tuy nhiên, cả hai phương thức sản xuất hiện tại là chiết xuất từ thực vật hoặc tổng hợp bằng các phản ứng hoá học trong pḥng thí nghiệm, đều cho sản phẩm với giá thành rất cao. Trong khi đó, số người mắc bệnh sốt rét lại chủ yếu ở các nước nghèo.

Trong một nghiên cứu mới đây, các nhà khoa học thuộc Đại học California (Mỹ), dẫn đầu là giáo sư Jay Keasling, đă tiến hành ghép gene của cây ngải tây và gene vi khuẩn men bia vào vi khuẩn E. coli (một loại vi khuẩn đường ruột quen thuộc). Bộ gene tổng hợp trong vi khuẩn E.coli đă tạo ra một cơ chế chuyển hoá hoàn toàn mới, giúp chúng tổng hợp nên một hoá chất có tên là isoprenoids. Hoá chất này đang được nhiều nơi trên thế giới sử dụng để tổng hợp nên một số loại thuốc chống ung thư, một số loại phụ gia thực phẩm, và đặc biệt là artemisinin - thuốc chống sốt rét đang được coi là có khả năng kỳ diệu. 

Trước Keassling, các nhà khoa học chỉ có thể ghép một đoạn gene mới vào một bộ gene hoàn chỉnh để thay đổi chức năng của bộ gene này, song không thể ghép thành công các hệ thống gene hoàn chỉnh với nhau để tạo nên một cơ chế chuyển hoá mới. Do vậy, thành công của Keasling được coi là một bước tiến vĩ đại trong công nghệ sinh học hiện nay.

Các nhà khoa học rất hy vọng rằng kỹ thuật nối gene của nhiều loại vi sinh vật để sản xuất isoprenoids, một ngày nào đó có thể được sử dụng đại trà để tổng hợp nên artemisinin giá thành thấp. Đây sẽ là niềm hy vọng cho những người dân ở các nước nghèo, đặc biệt là châu Phi.

Theo số liệu của Tổ chức Y tế Thế giới, mỗi năm toàn thế giới có thêm từ 300 triệu đến 500 triệu người mắc các bệnh truyền nhiễm do muỗi. Rất nhiều người trong số đó không đủ tiền để mua các loại thuốc mới, trong khi hiện tượng kháng thuốc của các virus gây bệnh ngày càng phổ biến.

Tử Vi (theo Science Daily, 3/6/2003)

 

42- Ong sửa gene theo 'nghề nghiệp'

 

Khi ong mật già đi, chúng chuyển từ vai tṛ bảo mẫu sang đi kiếm ăn.

Khi trưởng thành, một con ong mật cái có thể bật và tắt 40% số gene của ḿnh để chuyển từ vai tṛ “cô bảo mẫu” thành ong thợ đi kiếm ăn. Phát hiện của các nhà nghiên cứu Mỹ chứng tỏ gene và hành vi có mối quan hệ mật thiết hơn nhiều so với những quan niệm phổ biến trước đây.

“Một số trong những thay đổi trên là kết quả của quá tŕnh lớn lên”, Gene Robinson, giáo sư về côn trùng học và là giám đốc của chương tŕnh khoa học thần kinh tại Đại học Illinois ở Urbana-Champaign, trưởng nhóm nghiên cứu, cho biết. “Những thay đổi này bất biến qua các cá thể tới mức một chương tŕnh máy tính có thể căn cứ vào hành vi thể hiện để xác định cá thể đó là ong bảo mẫu hay ong kiếm mồi", ông nói.

Robinson và cộng sự đă phân tích 5.500 gene hoạt động của ong mật trong nghiên cứu của ḿnh. Họ tạo ra những chip gene - một chiếc đĩa trên đó các hóa chất phản ứng với các sản phẩm của gene hoạt động, khiến chúng phát quang khi tiếp xúc với một loại ánh sáng nào đó. Nhờ đó, họ có thể lần theo sự phát triển của 60 con ong khác nhau khi một số gene bật và số khác tắt.

“Tốc độ tăng trưởng của một con ong dựa trên nhu cầu của nó và bầy đàn”, Robinson thông báo.

Ong mật vốn sống trong những bầy đàn mà con cái chiếm ưu thế và con đực chỉ làm mỗi một nhiệm vụ là truyền giống cho nữ hoàng. Một con ong mật điển h́nh có tuổi thọ khoảng 6 tuần. Trong 2-3 tuần đầu tiên, ong bảo mẫu sẽ chăm sóc lũ ong non, sau đó chuyển sang vai tṛ mới là đi t́m kiếm mật và phấn hoa. Song, kết quả nghiên cứu cho thấy nếu đàn ong thiếu thành viên đi kiếm ăn, một số ong bảo mẫu sẽ trưởng thành nhanh hơn. Và để thực hiện việc đó, chúng bắt buộc phải bật, tắt một số gene nhất định. Tuy vậy, “việc chuyển thành ong kiếm ăn sẽ thúc đẩy chúng tiến nhanh hơn cái chết”, Robinson cũng cho biết.

B.H. (theo Reuters)

 

43- T́m thấy Eve của họ nhà rùa trên đảo Galapagos?

 

Rùa khổng lồ trên núi lửa Alcedo.

Các nhà nghiên cứu đă kinh ngạc trước khám phá rằng một bầy rùa sống trên sườn núi lửa Alcedo - thuộc một trong những ḥn đảo của quần đảo Galapagos - có quần thể hùng hậu nhất, nhưng lại nghèo nàn gene nhất trên quần đảo này. Dường như chúng là hậu duệ của một vài, thậm chí chỉ một con mẹ mà thôi.

Các nhà nghiên cứu nhận định đây là kết quả của một quá tŕnh di truyền nút cổ chai - hay sự giao phối cận huyết ở mức độ mạnh - sau một vụ phun trào núi lửa diễn ra khoảng 100.000 ngh́n năm trước.  

Núi lửa Alcedo nằm trên đảo Isabela, một ḥn đảo có 5 nhóm rùa khổng lồ sinh sống, mỗi nhóm chiếm các sườn dốc của 5 ngọn núi lửa lớn trên ḥn đảo này. Nhóm sống trong khu vực giàu thực vật trên Alcedo là nhóm lớn nhất trên quần đảo, với khoảng 3.000 đến 5.000 cá thể.

Mới đây, khi thực hiện một nghiên cứu quy mô lớn trên ADN ty thể của chúng (loại ADN chỉ di truyền theo ḍng mẹ), Luciano Beheregaray, Đại học Macquarie ở Sydney, Australia, và cộng sự đă phát hiện thấy bầy rùa cư ngụ ở Alcedo có độ đa dạng sinh học thấp hơn 5 lần so với những nhóm khác trên đảo Isabela.

“Sự nghèo nàn trong bộ gene của chúng là một bất ngờ lớn. Chúng tôi vẫn h́nh dung về điều ngược lại, v́ bầy rùa ở Alcedo là lớn nhất ở đây”, Beheregaray nói.

Phát hiện này chứng tỏ đó là một quần thể c̣n tương đối trẻ, chỉ được h́nh thành cách đây chưa lâu, mặc dù Alcedo đă nổi lên mặt biển cùng thời gian với các núi lửa khác trên đảo Isabela, khoảng 500.000 năm trước. Điều ǵ khiến cho Alcedo trở nên tách biệt như vậy?

Các nhà nghiên cứu phỏng đoán rằng một vụ phun trào dữ dội của Alcedo khoảng 100.000 năm trước đă dẫn đến hậu quả này. Các núi lửa c̣n lại trên đảo có cấu tạo từ dung nham bazan, nên không phát sinh những vụ phun trào mănh liệt, và v́ thế không đụng chạm ǵ đến những quần thể sinh vật sống ở đó. Ngược lại, núi lửa bùng phát đột ngột ở Alcedo đă tiêu diệt hầu hết nhóm rùa sống trên sườn núi, và chỉ để lại một (vài) cá thể sống sót. Chúng giao phối cận huyết nhiều năm, h́nh thành quần thể có cấu trúc gene độc đáo như ngày nay. Có thể coi đó như là các "Eve của Galapagos".

B.H. (theo Discovery)

 

44- Phát hiện được ở chuột một gene đóng vai tṛ quan trọng trong hành vi hung hăn và lo lắng

* Ngày 23/1, các nhà khoa học Mỹ thông báo đă phát hiện được ở chuột một gene đóng vai tṛ quan trọng trong hành vi hung hăn và lo lắng. Gene này mang tên Pet-1, cần thiết cho sự phát triển b́nh thường của tế bào sản xuất serotonin (hóa chất trong năo liên quan tới t́nh trạng trầm uất). Con người cũng có một gene tương tự. Các nhà nghiên cứu hy vọng phát hiện này sẽ giúp ích cho việc t́m hiểu những rối loạn lo lắng và hung hăn ở người.

 

45- Hy vọng mới trong việc cấy ghép nội tạng lợn cho người 

 

Lợn - nguồn cung cấp nội tạng cho người.

Các nhà khoa học Italy mới phát triển một kỹ thuật cấy gene người vào tinh trùng lợn, để tạo ra những con lợn có các cơ quan nội tạng tương thích với hệ miễn dịch của người. Nhờ vậy, người ta có thể dùng nội tạng lợn để thay thế cho người mà không bị hệ miễn dịch đào thải.

Nhóm nghiên cứu của Marialuisa Livitrano, Đại học Milan (Italy), đă kết hợp gene hDAF của người với tinh trùng lợn trong một dung dịch khoáng chất loăng. Kết quả là, trong 93 mẫu thử đă có 53 mẫu thành công: gene người đă được ghép vào tinh trùng lợn.

Dùng tinh trùng lợn (đă được cấy gene người) để thụ tinh cho trứng lợn trong ống nghiệm, các nhà khoa học đă tạo ra những con lợn mà các cơ quan nội tạng như tim, phổi, thận của chúng không hề phản ứng với hệ miễn dịch của người. Có nghĩa là, khi cần thiết, các bác sĩ có thể sử dụng các cơ quan nội tạng này của lợn để ghép cho người.

Trước nay, việc ghép gene người vào ADN của lợn thường được thực hiện bằng cách đưa gene cấy vào trứng lợn đă thụ tinh. Tỷ lệ thành công của phương pháp này chỉ là 4%. Phương pháp mới, với tỷ lệ thành công trên 50%, tỏ ra có ưu thế hơn hẳn.

Minh Hy (theo dpa, BBC, 23/10/2002)

 

 

46- V́ sao người nói được mà tinh tinh th́ không?

 

Tinh tinh con trong ṿng tay của bố.

Cuộc so sánh bộ gene của người và tinh tinh cho thấy một sự khác biệt gene liên quan đến thính giác đă cho phép con người phát triển giọng nói trong khi tinh tinh không nói được.

Bộ gene của con người và tinh tinh 99% giống nhau. Nhưng một số quá tŕnh phát triển như thính giác và khứu giác của con người lại có tốc độ nhanh hơn. Những gene liên quan tới quá tŕnh này có thể giải thích một phần v́ sao tinh tinh và con người lại có sự khác biệt đó.

Nhà nghiên cứu Andrew Clark tại Đại học Cornell ở Ithaca, New York, cùng cộng sự đă lập nên bản đồ gồm hơn 7.000 gene của tinh tinh trước khi so sánh với con người và khỉ.

Các nhà nghiên cứu đă cố gắng t́m hiểu sự khác biệt gene đó là do ngẫu nhiên hay do chọn lọc. Họ t́m thấy một số gene tham gia vào quá tŕnh phát triển thính giác ở con người đă trải qua sự chọn lọc tự nhiên. Điều này chứng tỏ để có thể nói được, con người cần có một khả năng nghe sắc nét hơn.

Minh Thi (theo AFP)

 

47- Ham đồ ngọt - dấu hiệu có di truyền gene của chứng nghiện rượu

 

Khi sở thích đồ ngọt xuất hiện, đó có thể là điềm báo trước của chứng nghiện rượu và báo hiệu có di truyền gene về căn bệnh này.

"Nhiều nghiên cứu cũng khẳng định đối với động vật có vú như chuột và khỉ, sở thích nước ngọt có liên quan mạnh mẽ tới sự tiêu thụ chất cồn", Alexei B. Kampov-Polevoy tại trường Y học Mount Sinai, Mỹ, phát biểu.

Một nghiên cứu trước đă cho thấy những người nghiện rượu đặc biệt thích đồ ngọt. Nhưng người ta vẫn chưa rơ sở thích nước ngọt có phải là kết quả lâu dài của chứng nghiện rượu hay chính đấy là điềm báo trước của cơn nghiện này.

Nghiên cứu mới đă t́m ra câu trả lời. Các nhà nghiên cứu chia 163 người thành 2 nhóm. 81 người trong nhóm đầu có lịch sử di truyền về chứng nghiện rượu, trong khi 82 người ở nhóm hai không có.

Tất cả người tham dự được yêu cầu đánh giá các loại dung dịch đường mía về độ ngọt và vị ngon. Người có lịch sử nghiện rượu trong gia đ́nh thích ăn đồ ngọt gấp 2,5 lần người trong nhóm hai.

"Kết quả này chứng tỏ sở thích đồ ngọt là điềm báo trước chứng nghiện rượu và khẳng định giả thuyết có sự liên kết giữa sở thích đồ ngọt với nguy cơ di truyền căn bệnh nghiện rượu", David Overstreet tại Đại học North Carolina, Mỹ, nói.

Minh Thi (theo Healthdaynews)

 

48- Voi Borneo được công nhận là phụ loài mới

 

Một chú voi Borneo con.

Những con voi nhỏ nhất thế giới trên đảo Borneo, Malaysia, c̣n gọi là voi pygmy, đă chính thức được thừa nhận là một phụ loài mới của voi châu Á, sau các cuộc xét nghiệm gene. Chúng nhỏ hơn, có tai rộng, đuôi dài và ngà thẳng hơn so với voi châu Á điển h́nh.

Chi nhánh của Quỹ Quốc tế về Bảo vệ thiên nhiên (WWF) tại Malaysia đă thông báo như vậy, sau khi có các kết quả xét nghiệm ADN từ phân của chúng (mẫu phân được gửi tới Đại học Columbia ở New York để phân tích). Các nhà nghiên cứu cho biết voi Borneo tách khỏi họ hàng châu Á của chúng và tiến hoá độc lập vào khoảng 300.000 năm trước. Chúng có tính t́nh ôn ḥa hơn voi châu Phi, châu Á, và hiện c̣n khoảng 100-200 con.

Từng có giả thuyết cho rằng bầy voi này thực chất là những con voi châu Á thuần hoá, được Công ty Đông Ấn (Anh) đưa đến Borneo như là một món quà tiến vua của vùng Sulu - người cai trị phía đông bắc Borneo, vào thế kỷ 17.

“Tuy nhiên, phát hiện này chứng tỏ chúng đă hiện diện ở Borneo từ rất lâu. Có thể chúng là phần c̣n lại của một quần thể lớn hơn, di cư từ đảo Sumatra của Indonesia tới trong thời kỳ băng hà, hơn 10.000 năm trước. Nước biển dâng lên và chúng đă bị mắc kẹt trên ḥn đảo này", Stuart Chapman, người đứng đầu chương tŕnh loài của WWF, cho biết.

“Xét về tính nguy cấp, voi châu Á cần được bảo vệ gấp 10 lần voi châu Phi, với dân số chỉ c̣n khoảng 35.000 con trong tự nhiên, phân bố trên 10 quốc gia”, Chapman nói. Cũng theo ông, sẽ cần tới những quan trắc dài hạn nữa để xác định tuổi thọ và các phương pháp bảo tồn hợp lư nhất với loài động vật này.

B.H. (theo BBC)

 

49- Sinh con già tháng, có thể do gene của người cha 

 

Không phải bao giờ rắc rối trong sinh con cũng là lỗi của người mẹ.

Nghiên cứu của Đan Mạch cho hay, việc đứa bé ra đời sớm hay muộn phụ thuộc một phần vào gene của người cha. Ở những phụ nữ đẻ con già tháng trong lần sinh đầu, nguy cơ lặp lại điều này sẽ giảm nếu họ thay đổi bạn đời.

Trong khi thai kỳ b́nh thường kéo dài 42 tuần, phần lớn phụ nữ sinh con ở tuần 38-42. Thai già tháng được định nghĩa là kéo dài hơn 42 tuần hay 294 ngày kể từ ngày đầu của kỳ kinh cuối, nó chiếm 5% các thai kỳ và gây nguy cơ biến chứng cao cho cả mẹ và con. Thông thường, các bác sĩ sẽ can thiệp để thai kỳ không vượt quá 42 tuần.

Các nhà nghiên cứu Đan Mạch chia phụ nữ thành hai nhóm:

- Nhóm 1 gồm 21.000 phụ nữ sinh già tháng trong hai lần đẻ đầu.

- Nhóm 2 gồm hơn 7.000 phụ nữ sinh đúng hạn trong hai lần sinh đầu tiên. 

Kết quả cho thấy, ở những phụ nữ có một lần sinh con già tháng, nguy cơ lặp lại điều này là:

- 19,9% nếu các con có cùng một bố.

- 15,4% nếu đứa trẻ sau là con của bố khác.

Theo các tác giả, rất có thể gene của người cha chính là thủ phạm gây nên sự khác biệt này. Nghiên cứu đăng trên Tạp chí Y khoa Anh (BMJ) số ra hôm nay.

Mối liên hệ tương tự về ảnh hưởng của người cha tới thai kỳ cũng được t́m thấy trong một nghiên cứu của Mỹ. Các nhà khoa học nhận thấy, nguy cơ bị tiền sản giật (một biến chứng chết người của thai kỳ) là 15% trong lần sinh đầu tiên, và giảm xuống c̣n 5% đối với đứa trẻ thứ hai. Nếu người phụ nữ thay đổi bạn đời, nguy cơ ở lần thứ hai vẫn là 15%. Điều này có thể giải thích bằng khả năng điều chỉnh cho phù hợp với kháng nguyên của người đàn ông ở phụ nữ.  

Thu Thủy (theo ParkTribune, 1/3/2003)

 

 

50- Tại sao ong đực không có cha?

 

 

Một nhóm nhà nghiên cứu quốc tế vừa khám phá ra đoạn gene cho phép ong đực ra đời mà không cần có bố. Phát hiện này sẽ giúp giải thích nhiều điều cho đến nay vẫn c̣n là bí ẩn về loài ong, và có thể hỗ trợ các chuyên gia trong việc bảo tồn những quần thể bị nguy cấp.

“Chúng tôi t́m thấy một đoạn gene của ong mật chịu trách nhiệm về sự khác biệt giữa con đực và cái”, Kim Fondrk của Đại học Davis, California (Mỹ), thành viên nhóm nghiên cứu, cho biết. Ông và cộng sự ở Đức và Nauy đă gọi đoạn gene này là "kẻ quyết định giới tính bổ sung" (csd).

Csd tồn tại ở 19 kiểu h́nh, c̣n được gọi là các allen. Ong cái luôn luôn sở hữu hai bản sao như vậy, tức là hai allen khác nhau, trong khi con đực chỉ có một. Khoảng 1/5 các loài động vật, trong đó gồm toàn bộ họ nhà kiến, ong và côn trùng xă hội, sử dụng hệ thống phân chia giới tính này, song cơ chế và các gene thực tế liên quan đến quá tŕnh đó c̣n chưa được hiểu rơ. Phát hiện mới đây đă giúp giải thích hệ thống xă hội phức tạp của chúng, Fondrk cho biết.

Ông giải thích có ba đẳng cấp tồn tại trong tổ ong. Trước tiên là nữ chúa - con chịu trách nhiệm đẻ trứng và là mẹ của tất cả các thần dân trong bầy. Trong tự nhiên, ong chúa chỉ giao phối một lần với một con đực để có được hai tập hợp gene (hai allen của csd), di truyền cho tất cả các con cái của nó. Những con ong cái này trở thành ong thợ và làm mọi việc nhà. Chúng là những con duy nhất có ng̣i và cũng là những tay săn mật thiện nghệ.

Số c̣n lại là đực - những kẻ lười biếng. “Con đực chỉ có chức năng sinh sản. Chúng không được thừa hưởng allen thứ hai từ cha. Về thực chất chúng là sản phẩm nhân bản một nửa của nữ hoàng”, Fondrk nói.

Phát hiện này có thể giúp những người nuôi ong. Chẳng hạn, khi lai giống ong để lựa ra ḍng ưu thế, người ta có thể để cho trứng t́nh cờ được thụ tinh với hai bản sao của cùng một dạng csd. Những quả trứng này sẽ phát triển thành con đực vô sinh. Ong thợ sẽ t́m và giết chết những ấu trùng đực vô sinh đó, dẫn tới việc tổ ong có thể bị suy thoái và chết.

B.H. (theo Reuters)

 

51- Gene thông báo thời điểm rụng lá cho cây

 

Cây rụng lá mang đến vẻ đẹp cho mùa thu.
Cây rụng lá mang đến vẻ đẹp cho mùa thu.

Một số gene trong lá cây có thể giúp thông báo khi nào th́ đến thời điểm rụng lá trước mùa đông, các nhà khoa học Thụy Điển cho biết như vậy. Họ tin rằng thay đổi đặc điểm gene của cây có thể giúp các loài vốn quen với khí hậu ấm khai hoa được trong vùng lạnh hơn.

Các nhà nghiên cứu tại Đại học Umea và Viện Công nghệ Hoàng gia ở Stockholm, Thụy Điển, đă tiến hành thí nghiệm trên lá cây dương để xem những gene nào hoạt động tại các thời điểm khác nhau trong năm. Họ nhận thấy có tất cả hơn 2.400 gene làm việc trong cả năm, nhưng chỉ có 35 gene hoạt động khi lá cây chuyển màu để sẵn sàng rụng vào mùa thu.

Thông thường, thực vật cần phải chiết rút và khai thác chất dinh dưỡng từ lá càng nhiều càng tốt trước khi mùa lạnh đến. Một khi giá rét giết chết tế bào của lá, quá tŕnh này dừng lại và lá rụng xuống. Do vậy, cây cần một cơ chế bên trong để dự đoán khi nào đợt giá rét đầu tiên của mùa đông tới và khởi động quá tŕnh tận thu chất dinh dưỡng.

Các nhà khoa học tin rằng cơ chế rụng lá được kích hoạt khi thời gian ban ngày bắt đầu rút ngắn lại (chứng tỏ mùa thu tới), và một số trong 35 gene trên có thể là công cụ trong việc phá hủy chất diệp lục và h́nh thành nên hoá chất màu vàng và đỏ, tạo nên màu lá trong mùa thu.

Giáo sư Stefan Jansson thuộc nhóm nghiên cứu nói: "Mục tiêu của chúng tôi là t́m hiểu về cơ chế hoạt động của lá cây và xác định những gene nào tắt bật trong mùa thu. Trong tương lai chúng ta có thể áp dụng công nghệ gene để tạo nên một lịch hoạt động khác cho cây, thay v́ cái tự nhiên sẵn có".

Minh Thi (theo BBC)

 

52- Các dân tộc trên khắp thế giới chỉ có 3% gen khác nhau

 

95% khác biệt gene là ở trong chính bản thân quần thể.

Từ người Eskimo cư trú sát ṿng cực Bắc đến những người Basque không rơ xuất xứ ở Pháp, từ các bộ tộc Lào đến dân tộc Iran, tất cả đều có sự tương đồng kỳ lạ về mă di truyền. Giữa những nhóm người này chỉ có 3% gene khác nhau.

Trong phân tích chi tiết nhất từ trước tới nay về đa dạng gene người, Noah Rosenberg tại Đại học Nam California (Mỹ) và cộng sự đă so sánh gần 400 gene đánh dấu trên 1.000 người, đại diện cho 52 nền văn hóa và quốc gia. Họ phát hiện thấy, có đến 95% khác biệt gene là xảy ra trong bản thân mỗi quần thể, c̣n giữa các quần thể th́ sự khác biệt chỉ từ 3 đến 5%.

Cũng theo công tŕnh của Rosenberg, loài người có thể chia thành 5 nhóm gene lớn, tương ứng với những người sống ở Âu - Á, châu Mỹ, châu Phi Cận Sahara, Đông Á và châu Đại dương. Việc xác định được các nhóm này có thể là tin vui cho các bác sĩ. Ở mỗi nhóm người khác nhau, sẽ có những gene riêng nhạy cảm với các loại bệnh tật, thuốc hay vacxin khác nhau. Và v́ thế, các bác sĩ có thể căn cứ theo nguồn gốc của bệnh nhân mà cấp phát thuốc cho chính xác.

Nghiên cứu của Rosenberg và cộng sự cũng t́m thấy sự khác biệt lớn giữa các quần thể sống rất cách ly nhau, như giữa các bộ tộc pygmy ở châu Phi. Sau cùng, các nhà nghiên cứu cũng lưu ư rằng người Kalash ở bắc Pakistan, vốn được coi là có nguồn gốc Đông Á, lại có bộ gene tương tự với người châu Âu hay ở Trung Đông.

Công tŕnh này được xem là phân tích chi tiết nhất, v́ trước đây, các nghiên cứu loại này thường chỉ dựa trên 20-30 gene đánh dấu, và chia các mẫu ADN theo vị trí địa lư (chẳng hạn Bắc Mỹ và châu Phi) hay ngôn ngữ, mà không xem xét trên tổng thể các nhóm.

B.H. (theo Nature, 20/12/2002)

 

53- Brazil: Màu da không phản ánh đúng chủng tộc

 

Sự phân biệt da trắng, da đen hay da màu ở Brazil chỉ có ư nghĩa về mặt xă hội, chứ không hề được phản ánh ở cấp độ gene, các nhà khoa học nước này cho biết. Họ phát hiện thấy những người tự nhận là da trắng cũng mang tới 33% gene của người da đỏ và 28% của người châu Phi.

Giáo sư Sergio Pena cùng đồng nghiệp tại Đại học Federal de Minas Gerias, Brazil, và Đại học Porto, Bồ Đào Nha, đă nghiên cứu trên những người Bazil - dân tộc có ḍng máu pha trộn nhất thế giới (giữa người Âu, người Phi, và người da đỏ châu Mỹ). Họ phát hiện thấy không thể nào xác định được chủng tộc của những người này, kể cả bằng biện pháp phân tích gene.

Trước hết, nhóm nghiên cứu t́m ra 10 đặc điểm gene khác biệt hoàn toàn giữa 20 người đàn ông Bồ Đào Nha với 20 người đàn ông trên đảo Sao Tome, Tây Phi. Tuy nhiên, cần lưu ư là những khác biệt này không có vai tṛ ǵ trong việc quyết định màu da hay màu tóc.

Tiếp đó, nghiên cứu được áp dụng trên 2 nhóm người Bazil: Nhóm một gồm 173 người, được chia thành da trắng, da đen và da màu (dựa trên màu da, màu tóc, h́nh dáng mũi và môi). Nhóm hai gồm 200 người đàn ông ở thành thị tự coi ḿnh là người da trắng. Tuy nhiên, khi so sánh gene của hai nhóm người này, các nhà khoa học hầu như không t́m thấy 10 đặc điểm gene khác biệt trên. Thậm chí, những người tự nhận là da trắng trung b́nh có tới 33% gene là từ tổ tiên da đỏ và 28% từ châu Phi. Ngược lại, một tỷ lệ lớn những người thuộc nhóm da đen (48%) lại không có nguồn gốc châu Phi.

Nghiên cứu cho thấy, ở Brazil, màu da của một người nào đó không phản ánh đúng nguồn gốc của họ.

Minh Thi (theo Reuters), 18/12/2002

 

54- Phát hiện loài cóc tía mới

 

Con cóc có màu tím sáng và đôi mắt nhỏ xíu.

Các nhà sinh học vừa phát hiện ở miền tây Ấn Độ một loài cóc mới màu tím có chiếc mũi nhọn, mắt nhỏ xíu và có một quá khứ di truyền ấn tượng. Con vật mập mạp dài 7 cm được gọi là Nasikabatrachus sahyadrensis.

Theo các nhà khoa học, N. sahyadrensis không phải là con cóc b́nh thường. Xét về mặt tiến hoá, nó thuộc ḍng dơi hoàng tộc, tức là đại diện cuối cùng của loài cóc đă nhảy quanh chân khủng long vào kỷ Phấn trắng hơn 65 triệu năm trước đây.

Loài cóc này có chung đặc điểm gene với sooglossid, họ nhà cóc nhỏ hiện sống tại Seychelles, Ấn Độ. Sự giống nhau về gene này ủng hộ giả thuyết rằng hàng triệu năm trước đây, tổ tiên của cả hai loài cóc sống ở siêu lục địa Gondwana. Về sau, Gondwana phân tách thành hai mảng thạch quyển lớn, một bên gồm châu Phi và Nam Mỹ, một bên gồm Australia, Nam Cực và Indo-Madagascar. Tổ tiên của N. sahyadrensis và sooglossid sống ở Indo-Madagascar.

Vùng đất lớn này lại tiếp tục phân chia và h́nh thành nên Ấn Độ và các ḥn đảo ở Ấn Độ Dương. Tại đó, hai loài cóc lại tiến hoá độc lập dựa theo môi trường sống của chúng.

Minh Thi (theo AFP)

 

55- Hoàn tất phác thảo bản đồ gene chuột

 

 

Sinh vật này từng được phỏng đoán là có bộ mă di truyền tương đồng với loài người. Và quả thật, số lượng gene của chúng có khoảng 30.000, gần bằng với chúng ta. Đây chỉ là một phần trong công bố của các nhà khoa học Anh - Mỹ hôm qua, khi họ kết thúc thành công việc giải mă gene chuột sơ bộ.

Bộ gene chuột có khoảng 2,7 tỷ cặp bazơ-nitơ, nhỏ hơn của người khoảng 15% (bộ gene người có 3,1 tỷ cặp bazơ-nitơ, phân bố trên 23 cặp nhiễm sắc thể).

Các chuyên gia của Viện Nghiên cứu Gene Người Quốc gia Mỹ cho biết: "Thông tin này sẽ cho phép giới khoa học t́m hiểu chức năng của nhiều gene người. V́ chuột có bộ gene hầu như tương tự của chúng ta, và việc nghiên cứu chúng trong các pḥng thí nghiệm dễ dàng hơn nhiều”.

Cho đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn chưa chắc chắn về số lượng gene của người. Theo họ, trên các chuỗi ADN, đôi khi có sự lặp lại của một số gene, tạo nên các đoạn “ADN vô ích” mà giới khoa học chưa hiểu hết vai tṛ của chúng. Điều ngạc nhiên nhất từ công tŕnh mới này là chuột cũng có cùng những “gene vô ích” như chúng ta.

Bản đồ gene là tập hợp tất cả các nguyên liệu di truyền, và một phác thảo tŕnh tự gene giống như một bản đồ sơ bộ. Một số chuyên gia ví tŕnh tự phác thảo này như một bản đồ chỉ ra những đường cao tốc chính, nhưng lại chưa có tên đường, thành phố hay các thị trấn. Khoảng 4% bộ gene cần tiếp tục được xác định.

Mặc dù trước đó, một công ty tư nhân của Mỹ cũng đă đọc được bản đồ gene chuột, nhưng nghiên cứu của họ không được công bố rộng răi với giới khoa học trên thế giới. Công tŕnh mới này th́ ngược lại, nó được đưa lên Internet để bất cứ ai cũng có thể đọc và sử dụng.

B.H. (theo Reuters, 7/5/2002)

 

56- Công bố bản đồ chi tiết gene người


Số gene của các loài: 1. Ruồi giấm: 13.000; 2. Nấm men: 18.000; 3. Thực vật: 26.000; 4. Giun: 18.000; 5. Con người: khoảng 30.000 gene.
Hôm nay (12/2), lần đầu tiên những thông tin đầy đủ về bản đồ gene người sẽ chính thức được ra mắt, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử ngành khoa học và có lẽ cả ngành y học trên thế giới.
Sau hơn 10 năm nghiên cứu, vào 6/2000, các nhà khoa học Anh và Mỹ tuyên bố họ đă thành công trong việc giải mă các thông tin di truyền, nền tảng tạo nên sự sống cho con người. Đến nay, sau 7 tháng, cùng một lúc trên hai bờ Đại Tây Dương, những bí ẩn cuối cùng của bộ gene người sẽ được đưa ra ánh sáng.

Nghiên cứu gene người được thực hiện bởi hai nhóm khoa học độc lập: Dự án Gene Người được nhà nước tài trợ do Anh và Mỹ kết hợp và công ty Celera, một công ty nghiên cứu gene tư nhân Mỹ có trụ sở tại Maryland. Kết quả nghiên cứu của Celera sẽ được công bố trên tạp chí Science (Mỹ), trong khi những phát hiện của Dự án Gene Người sẽ có mặt trên tạp chí Nature (Anh).

Giá trị to lớn

Tại một cuộc họp báo, Tiến sĩ Michael Dexter, Giám đốc của khu nghiên cứu gene Wellcome Trust, (gần Cambridge, Anh), cho biết: “Việc lập bản đồ gene người được so sánh với sự kiện đưa con người lên mặt trăng. Nhưng tôi tin rằng nó c̣n hơn thế. Đây là những thành tựu trí thức đột phá, không chỉ trong thế hệ chúng ta mà là trong toàn bộ lịch sử của loài người”.

Việc lập bản đồ tŕnh tự hoá học ADN của con người có thể sẽ mở màn cho một cuộc cách mạng trong ngành y học. Dữ liệu thu được từ dự án sẽ giúp các nhà khoa học t́m ra những cách thức mới chữa trị hiệu quả những căn bệnh hiểm nghèo như đái đường, ung thư và thậm chí cả các bệnh về thần kinh.

Ba giai đoạn trong công tŕnh lập bản đồ gene

1. Nghiên cứu tŕnh tự gene: Các nhà khoa học đă xác định được khoảng 3,5 tỷ kư tự (đơn vị) hoá học (A, C, T, G) tạo nên ADN, nền móng xây dựng nên bộ gene của con người.

2. Lắp ráp thành mă gene: Các nhà nghiên cứu xếp những kư tự hoá học theo đúng tŕnh tự, cho phép chúng ta “đọc” được các gene. Theo Tiến sĩ Craig Venter, Chủ tịch hăng Celera, 99 % gene người đă được t́m hiểu và 3,21 tỷ kư tự đă được “lắp ráp”.

3. Chú giải gene: Phần việc khó khăn nhất này… vẫn chưa tới. Các nhà khoa học phải xác định được mỗi gene và chức năng của nó. Công đoạn này sẽ cần vài năm để hoàn tất.

Một số kết luận chính trong nghiên cứu mă gene người

- Có khoảng 3,1 tỷ kư tự hoá học trong mă ADN của mỗi tế bào người.
- Bốn thành phần bazơ nitơ cơ bản của ADN, thể hiện bằng kư tự A, C, G, T được sắp xếp theo cặp, xây dựng nên tất cả các cơ thể sống. Mỗi nhóm 3 kư tự tương ứng với một amino axit đơn.
- Có 20 loại amino axit khác nhau tạo nên các loại protein như keratin trong tóc và hemoglobin trong máu.
- Con người có khoảng 30.000 gene, ít hơn nhiều so với dự kiến. Trong khi con số này ở giun tṛn là 18.000 và ruồi giấm là 13.000.
- Sự khác biệt giữa người và ruồi giấm hay sâu bọ là gene người có cơ chế làm việc khác hẳn và chúng ta có nhiều gene điều khiển.
- Hàng trăm gene dường như có xuất xứ từ các loại vi khuẩn.
- Phần lớn đột biến xảy ra trên đàn ông.
- Các nhà khoa học bắt đầu khám phá giá trị của 97% ADN không tham gia mă hoá thông tin tạo nên protein. Họ cho rằng những ADN được coi là "vô nghĩa” này có thể giúp di chuyển gene.
- Có khoảng 1,8 m ADN trong mỗi tế bào, có thể được gói gọn trong một cấu trúc đường kính 0,001 cm.
- Nếu tất cả ADN trong cơ thể người được xếp thành một hàng, con đường này sẽ dài gấp 600 “tua du lịch khứ hồi” từ trái đất tới mặt trời.
- Khác biệt ADN giữa con người với nhau chỉ vào khoảng 0,1 %, hay là 1/500 (kư tự).

Bích Hạnh (theo BBC, 12/2/201)
 
 

57- Tranh căi về số gene người bùng nổ

 

Khoa học vẫn chưa có câu trả lời chính xác về số gene người.

Theo một phân tích mới nhất trên máy tính, các nhà khoa học Mỹ khẳng định loài người được tạo nên từ 66.000 gene, gần gấp đôi con số mà hai nhóm nghiên cứu trước đây đă đưa ra khi công bố bản đồ chi tiết gene người.

Đại học bang Ohio, Columbus đă phân tích số liệu này. Họ lập mô h́nh trên một siêu máy tính và đưa ra kết quả dự đoán có khoảng 65.000-75.000 gene.

Trước kia, con số 30.000-40.000 gene ở người so với giun tṛn là 18.000 và ruồi giấm là 13.000 đă gây ngạc nhiên trong giới khoa học. Một giải thích cho sự khác biệt giữa bộ gene người và ruồi giấm hay giun tṛn là gene người có cơ chế làm việc khác và có nhiều gene kiểm soát hơn. Tuy nhiên, kết quả trên vẫn chưa thuyết phục được nhiều nhà khoa học. Theo họ, c̣n không ít các gene nữa đang “giấu mặt” đâu đó trong cuốn sách của sự sống.

“Bản đồ về chuỗi gene trên máy tính chỉ ra rằng có khoảng 65.000 tới 75.000 đơn vị phiên mă”, Tiến sĩ Bo Yuan của Đại học bang Ohio, cho biết. Đơn vị phiên mă (transcriptional unit) là chiều dài của một đoạn ADN thể hiện các đặc tính của một gene, nhưng cần được kiểm chứng hơn nữa.

Tuy nhiên, công bố mới đưa ra đă gặp ngay sự phản đối từ Trung tâm Sanger, quận Cambridge, Anh, cơ sở chịu 1/3 trách nhiệm trong việc giải mă gene người. “Con số thực sự từ các thí nghiệm chỉ có 30.000-40.000 gene”, Tim Hubbard, trưởng nhóm phân tích tại Trung tâm cho biết. Ông nói: “Tôi không tin lập luận từ phân tích trên. Đó hoàn toàn là một kết quả trên máy tính và nó không đáng tin cậy. Cần có các thử nghiệm kiểm chứng xem số gene mà máy tính đưa ra có phải thực sự là gene hay không”.

B.H. (theo BBC, 9/7/2001)

58- SARS có thể là 'con' của virus từ chim và động vật có vú

 

Virus SARS.

Sau khi phân tích kỹ gene của virus SARS và một số siêu vi trùng liên quan, các nhà khoa học Canada nhận thấy "kẻ giết người giấu mặt" có thể là sản phẩm pha trộn giữa những virus đến từ loài chim và động vật có vú. Phát hiện có thể mở ra các liệu pháp trị bệnh hiệu quả.

Trưởng nhóm nghiên cứu đến từ Đại học tổng hợp Toronto, giáo sư di truyền tiến hóa David Guttman cho biết, một nửa ADN của virus SARS trông giống virus corona ở động vật có vú, c̣n nửa kia có thể là bản sao của virus corona vẫn thường gặp ở loài chim.

Gene chủ chốt của virus SARS có dạng gai cũng có thể là kết quả pha trộn của hai loại ADN trên. Chính loại gene gai này đă giúp virus SARS kiểm soát được khả năng xâm nhập vào tế bào và lách qua được sự kiểm soát của hàng rào miễn dịch. "Sự kết hợp ADN đă tạo nên một cấu trúc hoàn toàn mới, khiến hệ miễn dịch khó nhận biết và phản ứng lại kịp thời", Guttman nói.

Virus SARS được t́m thấy trong loài cầy hương trong những chợ gia súc ở miền nam Trung Quốc. Theo Guttman, rất có thể cầy hương đă nhiễm virus từ chim. Về cơ bản, virus SARS có khả năng làm điều mà cha mẹ chúng không thể, đó là lây nhiễm sang người ở điều kiện mất vệ sinh.

Trong khi đó, Tổ chức Y tế Thế giới vẫn cảnh báo dịch SARS có thể xuất hiện theo mùa và sẽ trở lại trong mùa đông năm nay. Trung Quốc, nơi bị tàn phá nặng nề nhất trong đợt bùng phát hồi đầu năm, đang bị đặt dưới áp lực mau chóng t́m ra vacxin pḥng bệnh.

Yin Hongzhang, người đứng đầu bộ phận chế phẩm sinh học thuộc Cục quản lư thuốc và thực phẩm Trung Quốc, cho biết đất nước này đă sẵn sàng thử nghiệm lâm sàng 3 loại vacxin pḥng SARS. Cuộc thử nghiệm thứ nhất sẽ bắt đầu vào tháng 1 tới, song có thể phải mất nhiều năm nữa mới biết được sản phẩm có an toàn và hiệu quả hay không.

Hồi đầu năm nay, dịch SARS đă hoành hành ở châu Á và một số nước châu Âu. Số ca tử vong lên đến gần 800 người, trong tổng số hơn 8.000 bệnh nhân. Riêng Trung Quốc Đại lục ghi nhận 349 người thiệt mạng và hơn 5.000 ca bệnh

 

Thứ sáu, 21/6/2002, 09:54 (GMT+7)

Tin vắn ngày 21/6

"T́nh yêu" đối với bánh hamburger cũng mang tính di truyền.

Thói quen ăn uống mang tính di truyền * Phương pháp tẩy lông bằng laser hiệu quả tới mức nào? * Máu cuống rốn có thể giúp phục hồi tổn thương ở năo.

Bạn có bao giờ nghĩ rằng sự khoái khẩu đối với một số món ăn nào đó lại do cha mẹ truyền cho không? Các nhà khoa học tại Đại học Cincinnati (Mỹ) đă so sánh 14 cặp song sinh cùng trứng và 21 cặp song sinh cùng giới nhưng không cùng trứng, nhằm t́m hiểu liệu sở thích đối với các món ăn có mang tính di truyền hay không.

Các cặp song sinh cùng trứng có bộ gene hoàn toàn giống nhau, trong khi các cặp không cùng trứng th́ khác. Dựa vào đó, các nhà khoa học có thể so sánh hai nhóm để xem gene có tạo nên sự khác biệt hay không. Kết quả cho thấy, đúng là sự thích một số món ăn phụ thuộc vào gene. Những thực phẩm này gồm: nước cam, rau cải xanh (broccoli), phomát làm từ sữa gạn kem, gà, ngũ cốc ngọt và bánh hamburger. Nghiên cứu đăng trên Tạp chí của Hội Dinh dưỡng Mỹ.

Laser là một trong những tiến bộ mới nhất của kỹ thuật tẩy lông. Một báo cáo đăng trên tạp chí Ngoại khoa Da liễu của Mỹ cho rằng, tỷ lệ lông được tẩy hẳn nhờ phương pháp này dao động rất nhiều, tùy theo vị trí mọc của nó trên cơ thể.

Tỷ lệ này là 40% với lông mép, 65% đối với lông chân và 50% đối với lông mọc ở lưng. Tuy nhiên, đối với phần mặc bikini, bạn sẽ chỉ tẩy được 15% số lông mà thôi.

Các nhà khoa học tại Trung tâm Y tế Enry Ford và Đại học Nam Florida (Mỹ) cho biết, tế bào máu cuống rốn của trẻ sơ sinh có thể giúp cải thiện chức năng thần kinh và vận động ở chuột bị tổn thương năo. Người ta đă khiến các con chuột bị chấn thương năo. Sau 24 giờ, tế bào máu cuống rốn được tiêm vào tĩnh mạch đuôi của một số con. Số c̣n lại được tiêm giả dược (placebo).

Kết quả là vào ngày thứ 14 và 28 sau khi tiêm, sự cải thiện về vận động, thăng bằng và đáp ứng phản xạ đă rơ nét hơn ở nhóm được tiêm máu cuống rốn. Theo nhóm nghiên cứu, các tế bào máu cuống rốn đă giúp năo tự sửa chữa những mô bị tổn thương.

Trước đó, nhóm nghiên cứu cũng thu được kết quả tương tự khi dùng máu cuống rốn điều trị cho chuột bị đột quỵ. Nghiên cứu đăng trên tạp chí Ghép Tế bào.

Thu Thủy (theo HealthScout)